BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3-4 TUỔI HỌC TỐT MÔN KHÁM PHÁ KHOA HỌC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3-4 TUỔI HỌC TỐT MÔN
KHÁM PHÁ KHOA HỌC
1. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Hoạt động khám phá khoa học là một trong những hoạt động hấp dẫn đối với trẻ mẫu giáo, nó giúp trẻ tìm hiểu, khám phá những gì chúng nhìn thấy ở thế giới xung quanh. Hoạt động khám phá khoa học (làm quen với môi trường xung quanh) mang lại nguồn biểu tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, thế giới xung quanh sinh động là vậy, thích thú là vậy. Vì thế, trẻ luôn có niềm khao khát được khám phá, tìm hiểu về chúng. Cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ cung cấp cho trẻ vốn hiểu biết về những gì xung quanh mình, từ môi trường tự nhiên (cỏ cây, hoa lá) đến môi trường xã hội (công việc của mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau) và trẻ hiểu biết về chính bản thân của mình. Hiểu được tầm quan trọng đó, tôi luôn tìm tòi những biện pháp, phương pháp tốt nhất để giúp trẻ hoạt động tích cực trong lĩnh vực này.
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
* Giải pháp 1: Xây dựng cơ sở vật chất.
* Giải pháp 2: Bổ sung đồ dùng, đồ chơi để tiết dạy thêm sinh động, hấp dẫn.
* Giải pháp 3: Xây dựng góc (bé với thiên nhiên).
* Giải pháp 4: Làm giàu vốn hiểu biết về môi trư¬ờng xung quanh.
* Giải pháp 5: Rèn trẻ thông qua tiết dạy.
* Giải pháp 6: Nâng cao kỹ năng quan sát, khám phá ở trẻ.
* Giải pháp 7: Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy
trẻ cao nhất.
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
* Thuận lợi:
– Lớp luôn nhận được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường.
– Cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại: có khu cát nước, vườn cổ tích, vườn rau, vườn hoa, góc thiên nhiên phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại cây, hoa khác nhau để trẻ có thể trực tiếp tham gia vào hoạt động khám phá khoa học.
– Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình và có nhận thức tốt về hoạt động khám phá khoa học.
* Khó khăn:
– Trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi còn nhỏ nên vốn hiểu biết của trẻ về môi trường xã hội còn hạn chế.
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại:
* Đối với giải pháp 1: Xây dựng cơ sở vật chất:
Đồ dùng trực quan, đồ chơi phục vụ tiết học nh¬ư : Bàn, ghế, bảng, tranh, mô hình, các từ gắn với mỗi hình ảnh, vật mẫu… cần phải đầy đủ cho cô và trẻ cùng hoạt động.
Đồ dùng của trẻ cũng phải đẹp, hấp dẫn, phong phú sinh động nhằm kích thích sự hứng thú, tò mò, ham hiểu biết của trẻ, tôi th¬ường sử dụng đồ thật, vật thật hoặc hình ảnh động cho tiết học khám phá.
Dựa vào yêu cầu thực tế dạy trẻ, tôi đã đề nghị với Ban giám hiệu nhà trư¬ờng trang bị thêm thiết bị, đồ dùng dạy học nh¬ư: Bảng, tranh ảnh, lôtô và với mỗi tiết dạy cần có đồ dùng để phục vụ thật đầy đủ.
Với các bậc phụ huynh vận động họ mua thêm đồ dùng, tranh truyện, đặc biệt là tranh, sách, ảnh về các con vật, cây cối, hoa lá, quả… S¬ưu tầm những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao để làm phong phú vốn hiểu biết về môi trư¬ờng xung quanh
của trẻ.
Với chính bản thân mình, tôi tận dụng những nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương nh¬ư: vải vụn làm rối, cọng rơm khô làm mái nhà, sưu tầm lá khô với nhiều màu sắc, hoa ép khô, vỏ cây khô để làm tranh ảnh cho tiết dạy. S¬ưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò… để bổ sung giá đồ chơi của trẻ.
* Đối với giải pháp 2: Bổ sung đồ dùng, đồ chơi để tiết dạy thêm sinh động, hấp dẫn:
Ьược nhà trư¬ờng cấp phát cho tranh dạy môi tr¬ường xung quanh, lô tô các loại… Ngoài ra tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá… S¬ưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ khám phá khoa học. Tận dụng các hình ảnh ở tờ lịch, bìa, họa báo, ảnh cũ … vừa dùng để trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi.
Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ, các sản phẩm tạo hình, tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong phú của trẻ về khám phá môi trường xung quanh.
Tôi s¬ưu tầm những bài thơ về môi trường xung quanh, sau đó dùng hình ảnh minh họa và có chữ viết đi cùng. Vừa giúp trẻ củng cố hình ảnh vừa để trẻ rèn luyện ngôn ngữ. Từ đó tư¬ duy của trẻ cũng phát triển.
Với những đồ dùng, đồ chơi đ¬ược cấp phát và tự làm khi tôi đ¬ưa vào sử dụng trong tiết dạy khám phá khoa học, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học, trẻ hiểu biết nhiều, quan sát rất tốt, tìm rất nhanh các vật mẫu cô đ¬ưa ra, ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các loại quả… Từ đó tư¬ duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn.
* Đối với giải pháp 3: Xây dựng góc “Bé với thiên nhiên”:
Góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây: nhặt cỏ, bắt sâu, t¬ưới nước, ngoài ra còn là nơi trẻ có thể theo dõi sự nảy mầm của các loại hạt, trẻ biết chăm sóc cây theo lịch phân công, trẻ có thể tìm đọc các loại sách về thiên
nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên.
Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh nh¬ư: cây vạn niên, cây sống đời, cây rồng đỏ…, ngoài ra còn có các loại cây được gieo trồng từ loại hạt như: cây lúa, cây đậu, cây ngô, rau mồng tơi…
Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt… Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách (có que chỉ cho việc đọc sách). Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép khô, các loại hạt… Có gắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ đ¬ược chơi và làm đ¬ược những sản phẩm từ những đồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò…, vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền, vừa dễ kiếm.
Đối với tranh đều có chữ cái t¬ương ứng ở d¬ưới cũng đư¬ợc phân loại xếp gọn gàng và dễ kiếm.
Tôi cố gắng tạo cho trẻ có góc chơi rộng rãi với các nguyên vật liệu khác nhau để trẻ được trải nghiệm.
* Đối với giải pháp 4: Làm giàu vốn hiểu biết về môi trư¬ờng xung quanh:
Biểu tư¬ợng về thế giới xung quanh đ¬ưa đến với trẻ qua nhiều hình thức:
Câu đố, bài hát, ca dao, tục ngữ, đồng dao, tranh ảnh, đồ vật, vật thật… giúp trẻ không bị nhàm chán, lại dễ tiếp thu để trẻ ghi nhớ và chính xác hoá thành biểu tượng của mình.
Ví dụ : Cho trẻ làm quen với con cua :
“Con gì tám cẳng hai càng.
Chẳng đi mà lại bò ngang cả ngày?”
Trẻ đoán ngay đư¬ợc đó là con cua. Như¬ng trong đầu trẻ biểu t¬ượng về con cua đ¬ược chính xác là con cua có hai càng to, có tám chân, lại bò ngang nữa.
Cho trẻ làm quen với con cá, tôi dùng câu đố :
“Con gì có vẩy có vây
Không đi trên cạn mà bơi d¬ưới hồ?”
Trẻ trả lời đó là con cá. Như¬ng trẻ lại biết thêm con cá có đặc điểm cụ thể: có vẩy, có vây, có đuôi và môi trư¬ờng sống của chúng là sống ở dưới nước…
Ngoài ra tôi còn dùng cách khác để vào bài dạy cung cấp biểu t¬ượng thế giới xung quanh cho trẻ qua hình thức sử dụng hình ảnh mô hình, vật thật,…
* Đối với giải pháp 5: Rèn trẻ thông qua tiết dạy:
Vì hằng tuần đều có tiết dạy cho trẻ khám phá môi trường xung quanh, nên trong mỗi tiết với mỗi mẫu vật, hay clip, tôi đều cho trẻ quan sát kỹ, cho trẻ đ¬ưa ra nhiều ý kiến nhận xét để tìm ra đầy đủ và chính xác đặc điểm vật mẫu.
Ví dụ: Làm quen với con cua, trẻ đã tìm đư¬ợc đặc điểm của con cua có hai càng to, có tám chân… Sau đó đặt câu hỏi gợi mở : “Các con có biết con cua nó đi như¬ thế nào không?” Trẻ trả lời đ¬ược là con cua bò ngang, tôi dùng que chỉ rõ, cua có mai cua, yếm cua cứng để bảo vệ cơ thể chúng.
Như¬ vậy không những trẻ biết đ¬ược cua có những đặc điểm gì mà trẻ còn biết môi trư¬ờng sống của chúng, cách vận động (đi như¬ thế nào?) Các bộ phận cơ thể ra sao? Nắm rõ đặc điểm trẻ quan sát dễ hơn, từ đó trẻ so sánh rất rõ ràng và phân loại cũng rất tốt.
Trong tiết dạy môi tr¬ường xung quanh tôi lồng ghép thích hợp các môn khác như¬: toán, âm nhạc, tạo hình, văn học… để trẻ thêm hứng thú, ghi nhớ tốt hơn, hiểu vấn đề sâu và rộng hơn.
Ví dụ : Trong tiết dạy làm quen với động vật sống d¬ưới nư¬ớc. Tôi tích hợp môn làm văn văn học :
Tôi cho trẻ thi “ đố vui ” hai đội ra câu đố cho nhau và giải câu đố đội bạn.
“Nhà hình xoắn lắm ở dưới ao
Chỉ có một cửa ra vào mà thôi
Mang nhà đi khắp mọi nơi
Không đi đóng cửa nghỉ ngơi một mình ”
(Con ốc)
“Con gì đầu bẹp
Hai ngạnh hai bên
Râu ngắn vểnh lên
Mình trơn bóng nhỡn?”
(Con cá trê)
Thông qua đó trẻ trả lời đ¬ược câu đố rất vui vẻ hào hứng, kích thích t¬ư duy, làm phong phú vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc…
Trong tiết dạy tôi cũng lồng ghép toán sơ đẳng, làm quen với con cua: Tôi cho trẻ cùng cô đếm số chân cua.
Tôi đ¬ưa giáo dục âm nhạc xen kẽ giữa các phần chuyển tiếp trong tiết dạy để tiết dạy thêm hào hứng, sôi động.
Trong tiết dạy tôi cũng kích thích khả năng sáng tạo nghệ thuật của trẻ bằng cách gắn hoặc dán để hoàn thiện bức tranh.
Tôi th¬ường tổ chức các trò chơi trong tiết học. Các trò chơi động, trò chơi tĩnh đan xen nhau để tạo hứng thú, tiết dạy vui t¬ươi, trẻ thêm phần hoạt bát, nhanh nhẹn hơn.
* Đối với giải pháp 6: Nâng cao kỹ năng quan sát, khám phá ở trẻ:
Biết đư¬ợc kỹ năng và nghệ thuật dạy trẻ làm quen với môi trường xung quanh cũng ch¬ưa thật sáng tạo, nên bản thân tôi khắc phục bằng cách: Th¬ường xuyên học tập bạn bè đồng nghiệp, luyện tập giọng nói sao cho thật truyền cảm, tác phong dạy sao cho nhẹ nhàng, linh hoạt.
Về kiến thức phải nắm vững ph¬ương pháp dạy, cung cấp cho trẻ kiến thức dù đơn giản ¬nhưng cũng phải thật chính xác.
Tận dụng mọi thời gian để tự rèn luyện mình, dù ở lớp hay ở nhà.
Sử dụng bộ tranh cho trẻ làm quen môi trường, theo nội dung từng bài, theo
đúng chư¬ơng trình.
Luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhận xét của Ban giám hiệu, của đồng nghiệp sau mỗi tiết dạy, để từ đó phát huy những mặt tốt, khắc phục những hạn chế.
+ Về cách tiến hành :
Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tư¬ợng cho trẻ làm quen, tôi tìm những cách vào bài khác nhau để gây sự chú ý, tò mò của trẻ: có thể dùng câu đố, bài hát… để trẻ nhận biết đối t¬ượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật và mô hình.
Với mỗi đối tư¬ợng trẻ đ¬ược làm quen, trẻ đ¬ược quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen nh¬ư vậy tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó mà còn có cách ứng xử, hành động với chúng.
Tổ chức các trò chơi trong mỗi tiết dạy, tôi tổ chức đan xen trò chơi động với trò chơi tĩnh, làm cho không khí tiết dạy vui t¬ươi hào hứng và hiệu quả.
Trong các tiết học khác tôi cũng lồng ghép kiến thức môi trư¬ờng xung quanh để củng cố vốn hiểu biết về biểu tư¬ợng đã có của trẻ.
Trong hoạt động khác của trẻ, tôi có thể cung cấp kiến thức cũ, tận dụng mọi lúc, mọi nơi để giáo dục trẻ.
Trong hoạt động góc, trẻ đ¬ược chơi ở góc thiên nhiên. trẻ t¬ưới cây, nhặt lá, bắt sâu, xem sách về môi tr¬ường xung quanh. Đặc biệt trẻ đư¬ợc chơi nhiều đồ vật thật, khi được hoạt động nhiều với đồ vật thật, trẻ đư¬ợc nhìn, sờ, nắm, ngửi… Từ đó có hình ảnh trọn vẹn về những gì xung quanh trẻ, không thế mà tôi còn phát huy tính sáng tạo của trẻ bằng cách cho tẻ làm tranh từ nguyên liệu thiên nhiên như¬: Hoa, lá ép khô, vỏ cây, cọng rơm, vỏ thuỷ sản …
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại … khi trẻ quan sát tôi h¬ướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn đối
tượng đó.
Ví dụ: Cô và trẻ quan sát cây hoa hồng, h¬ướng trẻ nhận biết màu sắc cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn, các mép của lá có răng c¬ưa. Đư¬a hoa nên ngửi có mùi thơm.
Dạo chơi thăm quan hoạt động ngoài trời, không những để trẻ khám phá thế giới xung quanh mình mà tôi còn giáo dục tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi người , về mối quan hệ giữa con ngư¬ời với nhau, đặc biệt là giáo dục bảo vệ môi trường. Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như tạo cho trẻ thói quen vứt rác đúng nơi quy định và ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp.
* Đối với giải pháp 7: Kết hợp giữa cô giáo và phụ huynh để đạt hiệu quả dạy trẻ cao nhất:
Đối với trẻ mầm non dễ nhớ lại hay quên, nếu không đ¬ược luyện tập thư¬ờng xuyên thì sau ngày nghỉ sẽ quên lời cô dạy.
Vì thế tôi th¬ường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trả trẻ để hiểu đ¬ược tính cách trẻ và để phụ huynh luyện thêm cho trẻ.
Động viên các cháu không chỉ biết bảo vệ môi trư¬ờng xung quanh mà còn quan tâm, giúp đỡ bố mẹ những công việc vệ sinh nhỏ.
Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển tranh về con vật, cây cỏ… phù hợp với lứa tuổi để trẻ đ¬ược làm quen với hình ảnh trong tranh truyện.
Việc kết hợp giữa gia đình và cô giáo là không thể thiếu đ¬ược, giúp trẻ luỵên tập nhiều hơn, từ đó trẻ có đ¬ược vốn kiến thức về thiên nhiên, về xã hội phong phú và đa dạng hơn. Vì trẻ ở môi tr¬ường là nông thôn, nên ở nhà trẻ được tiếp xúc với nhiều thiên nhiên, cỏ cây hoa lá rất nhiều, đ¬ược bố mẹ th-ường xuyên cung cấp và củng cố những gì đã có, thì hiệu quả việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh là rất cao.
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Việc áp dụng các giải pháp từ sáng kiến, bản thân nhận thấy trẻ lớp tôi tham gia tích cực hơn, hứng thú hơn trong hoạt động này, tăng cường sự ham thích đến lớp ở trẻ. Số trẻ có kỹ năng quan sát, phán đoán về các sự vật, hiện tượng, môi trường xung quanh ngày càng được nâng lên rõ rệt. Mỗi khi đến giờ học khám phá khoa học trẻ rất háo hức, tò mò hôm nay sẽ khám phá về cái gì? Qua đó hình thành ở trẻ tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường, góp một phần nhỏ trong việt nâng cao chất lượng hoạt động “Khám phá khoa học” cho trẻ nói riêng và nhà trường nói chung. Ngoài ra những giải pháp nêu trên, không những áp dụng tốt tại lớp tôi mà còn được áp dụng ở một số lớp Nhỡ, đem lại những kết quả cao theo như các giáo viên trong khối lớp Nhỡ đã chia sẻ.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
a. Điều kiện về con người:
– Cần có sự thống nhất về kế hoạch, nội dung, hình thức tổ chức thực hiện của tập thể cán bộ, giáo viên trong nhà trường
– Giáo viên nắm vững kiến thức chuyên ngành về GDMN, nắm vững nội dung chương trình GDMN được sửa đổi, bổ sung theo thông tư 51/TT-BGDĐT.
– Cô giáo có tấm lòng yêu trẻ, nhiệt tình trong công tác, chịu thương chịu khó, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu các đề tài hấp dẫn, mới lạ để dạy cho trẻ.
– Cần có sự phối hợp chặt chẽ của phụ huynh với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm.
– Sự hứng thú tham gia của học sinh
b. Điều kiện về cơ sở vật chất:
– Phòng học đảm bảo diện tích theo quy định, sạch sẽ, thoáng mát. Lớp học có đầy đủ đồ dùng theo quy định.
– Xây dựng khu cát nước, vườn cổ tích, vườn hoa, vườn rau, vườn thiên nhiên phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại cây, hoa khác nhau.
– Tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm mô hình, tranh ảnh, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho tiết dạy.
1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại:
Từ việc thử nghiệm ở một số lớp trong trường đem lại hiệu quả trên trẻ, nhà trường đánh giá cao hiệu quả mà sáng kiến đã mang lại cho hoạt động khám phá khoa học, nội dung giải pháp phù hợp với độ tuổi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ.
Nhiều giáo viên đã áp dụng thử các giải pháp trên và đã thu được kết quả tốt, hầu hết trẻ đều rất yêu thích và hứng thú tham gia hoạt động hoạt động khám phá khoa học, trẻ có nhiều tiến bộ rõ rệt trong từng tiết dạy.
+ Trẻ phát triển tốt kỹ năng quan sát, hiểu biết rộng về môi trường tự nhiên cũng nh¬ư môi trường xã hội
Đối tư¬ợng phụ huynh: Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ đ¬ược tầm quan trọng của việc dạy trẻ làm quen với hoạt động khám phá khoa học, tạo điều kiện cùng với cô giáo để việc khám phá khoa học của trẻ đạt hiệu quả cao nhất.
2. Những thông tin cần được bảo mật : Không
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu:
TT Họ và tên Nơi công tác Nơi áp dụng sáng kiến Ghi chú
1 Võ Thị Kim Hằng Trường MN Đại Hiệp Tại lớp Bé 4 trường MN Đại Hiệp
2 Lê Thị Thắm Trường MN Đại Hiệp Tại lớp Bé 3 trường MN Đại Hiệp
Đại Hiệp, ngày 02 tháng 11 năm 2022 Người nộp đơn
Nguyễn Thị Lệ Mỹ
4. Hồ sơ kèm theo:
*Hình ảnh minh họa:
Phòng học sạch sẽ, thoáng mát, đủ diện tích cho trẻ tham gia hoạt động
khám phá khoa học
Bổ sung đồ dùng, đồ chơi tự tạo để tiết dạy thêm sinh động, hấp dẫn
Góc thiên nhiên nơi trẻ khám phá về thế giới tự nhiên
Giờ học khám phá khoa học của các bé
Tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có để làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho giờ học khám phá khoa học
Trẻ làm thí nghiệm vật chìm, vật nổi