Website Trường Mầm Non Đại Hiệp – Đại Lộc – Quảng Nam

CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON. Giáo viên Phan thị Hướng

CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON

1. Mô tả bản chất của sáng kiến7:
Trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, phát triển thể lực thông qua phát triển vận động là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với trẻ mầm non. Phát triển vận động là một trong những điều cơ bản để trẻ nhận thức thế giới xung quanh, trẻ biết nhiều kỹ năng vận động thì trẻ càng có nhiều cơ hội tiếp xúc, khám phá thế giới xung quanh tạo điều kiện tốt để trẻ tham gia vào nhiều hoạt động và trẻ sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm qua các hoạt động đó, nhờ thế mà vốn kiến thức của trẻ được tăng lên, đồng thời khi thực hiện các yêu cầu của vận động cũng giúp thêm cho trẻ rèn một số kỹ năng nhận thức như sự chú ý, tính kiên trì…Trong quá trình tham gia vào các trò chơi vận động trẻ còn được phát triển thêm cả về mặt tình cảm xã hội cũng như thẩm mỹ. Khi nói đến thể lực chúng ta có thể nghĩ ngay rằng đó là chất lượng của cơ thể con người có thể sử dụng vào thực tiễn một việc nào đó trong học tập, lao động, thể thao… Phạm trù thể chất bao gồm các mặt sau:
Tầm vóc cơ thể là trạng thái phát triển và hình thái, cấu trúc cơ thể bao gồm sự sinh trưởng hình thể và tư thế thân người của một cơ thể. Sinh trưởng chủ yếu chỉ qua quá trình biến đổi dần về khối lượng cơ thể từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng.
Năng lực tham gia vận động thể lực của một cơ thể, đây là một nhân tố hết sức quan trọng nó thúc đẩy và giúp cho các chức năng sinh lý của cơ thể phát triển một cách nhịp nhàng.
Khả năng thích ứng của cơ thể đối với môi trường bên ngoài, trong đó có khả năng chống lại bệnh tật. Trạng thái tâm lý là chỉ tình cảm, ý chí, cá tính của con người, nếu một con người có trạng thái tâm lý tốt thì cơ thể sẽ phát triển khỏe mạnh
Theo Jean Piaget: Trẻ nhỏ có vai trò tích cực trong sự phát triển nhận thức của mình thông qua sự tương tác qua lại tích cực với cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chơi là hình thức cơ bản giúp trẻ phát triển khả năng suy nghĩ và sự giao tiếp tích cực của trẻ, vai trò của giáo viên là khai thác các tình huống và các vật liệu trong môi trường để khuyến khích trẻ chơi. Hoạt động cùng nhau, hoạt động hợp tác giữa cô và trẻ, hoạt động cá nhân kết hợp với hoạt động nhóm có tác dụng to lớn trong phát triển trí thông minh và trong phát triển nhân cách.
Có thể nói, trò chơi vận động là hình thức hoạt động phát triển thể lực phù hợp và có hiệu quả nhất ở lứa tuổi mầm non. Trò chơi vận động không những giúp trẻ phát triển về thể lực mà còn phát huy tính tích cực, ham muốn vận động. Vì vậy mỗi giáo viên cần quan tâm đến trò chơi vận động và sử dụng một cách tối đa để giúp trẻ phát triển toàn diện.
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
Giải pháp 1: Sưu tầm lựa chọn các trò chơi vận động phù hợp với trẻ theo từng chủ đề
– Sắp xếp các trò chơi theo đúng chủ đề là rất cần thiết. Tôi đã nghiên cứu phiên chế chương trình cả năm học, đặc điểm tình hình tâm sinh lý trẻ cùng sự phát triển vận động của trẻ.
– Đã lập kế hoạch và lựa chọn, sắp xếp các trò chơi vận động phù hợp theo từng chủ đề, từng môn học. Tổ chức các trò chơi vận động nhằm phát huy tính tích cực chủ động của trẻ.
– Tích cực đưa trò chơi dân gian, kết hợp thay đổi một số lời hát của trò chơi cho phù hợp từng chủ đề, vào các hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
– Các trò chơi vận động và trò chơi dân gian được sưu tầm và sáng tạo sắp xếp phù hợp theo chủ đề.
* Chủ đề 1: Trường mầm non
– Trò chơi vận động: “ Tung cao hơn nữa”; “Ai nhanh hơn”; “Tìm bạn”; “Ai giỏi nhất”; “ Về đúng nhà”;“ Đổi đồ chơi cho bạn”.
– Trò chơi dân gian: “Trốn tìm”; “Nu na nu nống.
* Chủ đề 2: Bé và gia đình
– Trò chơi vận động: “Bắt chước tạo dáng”; “Chuyền bóng”; “Ai nhanh nhất”; “Bé với cái bóng của mình”.
– Trò chơi dân gian: “Tập tầm vông”; “Lộn cầu vồng”.
* Chủ đề 3: Nghề nghiệp
– Trò chơi vận động: “Gánh gánh gồng gồng”; “Đuổi bắt” ; “Ai nhanh nhất”; “Hái hoa tặng cô”.
– Trò chơi dân gian: “Bịt mắt bắt dê”; “Dung dăng dung dẻ”
* Chủ đề 4: Thế giới động vật
– Trò chơi vận động: “Gà trong vườn rau”; “Cáo và thỏ”; “Nhũng con vật ngộ nghĩnh đáng yêu”;“Ai nhanh nhất”; “ Những chú ếch tài giỏi”;“Mèo và chim sẻ”; “Cho thỏ ăn”; “Tìm chuồng”.
– Trò chơi dân gian: “Cắp cua bỏ giỏ”; “Kéo cưa lừa xẻ”; “Xỉa cá mè”.
* Chủ đề 5: Tết và lễ hội mùa xuân
– Trò chơi vận động: “Thi xem ai nhanh”;“Bé đi chợ tết”;“Bày mâm mũ quả”; “ Chuyền bóng qua đầu ”;.
– Trò chơi dân gian :“Rồng rắn lên mây”;“Nu na nu nống”;“Ném còn ”.
* Chủ đề 6: Thế giới thực vật
– Trò chơi vận động:“Trời nắng trời mưa”; “Về đúng vườn ”;“Gieo hạt”; “ Hái quả”;“ Chuyển quả ”.
– Trò chơi dân gian: “Rồng rắn lên mây”; “Mèo đuổi chuột”.
* Chủ đề 7: Phương tiện và quy định về giao thông
– Trò chơi vận động: “Bánh xe quay”, “Ai nhanh nhất”;“Chèo thuyền ”; “Thuyền vào bến”; “Ô tô vào bến ”;“Đèn xanh, đèn đỏ”; “Máy bay”; “Ô tô và chim sẻ”; Về đúng bến”; “Tín hiệu”.
– Trò chơi dân gian : “Kéo cưa lừa xẻ”; “Dung dăng dung dẻ”
* Chủ đề 8: Nước và các hiện tượng tự nhiên
– Trò chơi vận động: “Trời nắng trời mưa”; “Nắng mưa”;
“Nhảy qua suối”; “Tung và bắt bóng”; “Ném bóng vào chậu”.
– Trò chơi dân gian : “Nhảy lò cò”; “Lộn cầu vồng”.
* Chủ đề 9: Quê hương – Bác Hồ
– Trò chơi vận động: “Ai nhanh hơn”;“Thi xem tổ nào nhanh”; “Ai nhanh hơn”.
– Trò chơi dân gian: “Trốn tìm”; “Bịt mắt bắt dê”;“ Thả đỉa ba ba”.
* Kết quả: Với cách sắp xếp các trò chơi phù hợp theo từng chủ đề. Trẻ lớp tôi hứng thú, tích cực hơn rất nhiều mỗi khi được vận động, trẻ được vận động một cách thoải mái không gò bó.
Giải pháp 2:Biện pháp chuẩn bị đồ dùng đồ chơi, địa điểm trước khi tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi vận động
Trò chơi vận động thu hút được nhiều trẻ tham gia chơi. Vậy muốn tổ chức tốt các trò chơi vận động có kết quả cần làm tốt các bước sau:
* Chuẩn bị đồ dùng đồ chơi
Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi vận động cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò chơi. Mỗi trò chơi vận động có một hoặc nhiều loại đồ dùng, đồ chơi tương ứng mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được.
– Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Mèo và chim sẻ” dụng cụ cần có là mũ mèo và mũ chim sẻ… Hay đơn giản như trò chơi “Bịt mắt bắt dê” cũng không thể tổ chức được nếu không có dải vải hoặc dải khăn bịt mắt. Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi nào đó giáo viên cần tìm hiểu rõ về cách chơi để từ đó chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi.
Ngoài những đồ dùng, đồ chơi có sẵn, tôi đã làm thêm được một số đồ dùng tự tạo khác để phục vụ cho các trò chơi của trẻ và phù hợp với nội dung chơi:
+ Mô hình đầu xe ô tô, xe máy, xe đạp những mô hình phương tiện giao thông ứng dụng vào trò chơi “Tín hiệu” ở chủ điểm giao thông.
+ Mũ các con vật, tranh ảnh, các con rối là các con vật phục vụ cho trò chơi “Tìm về đúng chuồng”; “Bắt bướm”. Và các đồ dùng đó được làm từ các nguyên vật liệu phế thải đã qua sử dụng như: Vỏ hộp sữa, bìa cứng, thùng cát tông, quả bóng nhựa bị xịt hơi, xốp, ống nước nhựa, giấy màu, giấy báo, lốp xe máy, lốp ô tô,… đã được thiết kế tạo ra những đồ dùng phù hợp với từng trò chơi tương ứng với từng chủ đề.
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi vận động nào đó, giáo viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi.
* Chuẩn bị địa điểm để tổ chức cho trẻ chơi.
Địa điểm tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ là yếu tố rất quan trọng và cần thiết. Nếu lựa chọn được địa điểm chơi phù hợp giúp cho trẻ hứng thú khi tham gia vào trò chơi sẽ đem lại hiệu quả cao từ đó giúp cho trẻ phát triển tốt về thể lực. Mỗi trò chơi vận động đều có một cách chơi khác nhau. Chính vì vậy trước khi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động giáo viên cần nắm rõ cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp. Có trò chơi mang tính chất tập thể thường có số lượng người tham gia chơi đông đòi hỏi địa điểm chơi phải rộng như trò chơi: “Đuổi bắt”; “Kéo co”; “Rồng rắn lên mây”; “Mèo đuổi chuột”; “Thả đỉa ba ba”; “Mèo và chim sẻ”; “Ô tô và chim sẻ” tôi tổ chức cho trẻ chơi ngoài sân trường bằng phẳng có lát gạch đảm bảo an toàn và đủ diện tích cho trẻ. Các trò chơi vận động có thể tổ chức cho trẻ chơi ở bãi cỏ nhằm tạo cho trẻ được vui chơi tự do, gần gũi với thiên nhiên và đảm bảo cho trẻ khi ngã sẽ không bị đau hoặc xước da như các trò chơi: “Gà trong vườn rau”; “Bịt mắt bắt dê”; “Trốn tìm”… Nhưng có những trò chơi trẻ chơi theo nhóm nhỏ như trò chơi: “Tập tầm vông”; “Chi chi chành chành”; “Lộn cầu vồng ”; “Bắt bướm ”; “Đàn chuột con”…. tôi đã tổ chức cho trẻ chơi trong lớp.
Kết quả: Việc chuẩn bị địa điểm phù hợp để tổ chức các trò chơi vận động và làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các cho vận động. Sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn giúp cho trẻ khi tham gia vào các trò chơi vận động một cách thoải mái, trẻ ghi nhớ trò chơi được lâu hơn và trẻ rất hứng thú tham gia vào các trò chơi vận động.
Giải pháp 3: Biện pháp sáng tác lời ca, thủ thuật tạo hứng thú cho trẻ khi chơi trò chơi vận động
* Sưu tầm, sáng tác lời ca, đồng dao
Để các trò chơi vận động không bị nhàm chán, tăng thêm hứng thú cho trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, mạnh dạn, tự tin, yêu cầu của giáo viên phải luôn điều chỉnh hình thức, nâng cao yêu cầu của trò chơi, đưa thêm trò chơi mới thay đổi nhịp độ đội hình…Và tôi đã tìm nhiều hình thức để lôi cuốn trẻ vào trò chơi như: Giới thiệu và tổ chức cho trẻ chơi trò chơi như đang chơi trong ngày hội làng.
– VD: Để đưa trẻ vào những trò chơi trong ngày hội làng, thêm sự hứng thú, tôi dựng cảnh ngôi đình cùng những cây hoa, cây xanh, trang trí màu rực rỡ. Sau đó cô giới thiệu trò chơi, cách chơi, luật chơi và cho trẻ chơi.
+ Cô dùng các âm thanh, tín hiệu để thu hút trẻ lại, sau đó giới thệu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi. Dùng lời nói để động viên, khuyến khích trẻ hứng thú tham gia vào trò chơi:
VD: Cô lôi cuốn trẻ tập trung dưới hình thức : Cô cầm loa chạy ra và nói:
Loa…loa…loa…
Hôm nay ngày hội
Của các thầy cô
Các bạn lớp ta
Về đây dự hội
Sau đó cô giới thiệu chương trình giao lưu về kỹ năng vận động của các bạn lớp qua trò chơi: “ Gánh rau qua cầu” ở chủ đề “ Nghề nghiệp.
– VD: Với trò chơi: “Tín hiệu” trẻ rất hứng thú khi mỗi trẻ được cầm một đồ dùng là mô hình ô tô, hay xe máy, xe đạp và tập làm những người điều khiển phương tiện giao thông.
+ Để tổ chức cho trẻ chơi trò chơi: “Dung dăng dung dẻ” phù hợp với chủ điểm “Giao thông” tôi thay đổi lời ca trò chơi:
Dung dăng dung dẻ
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Phố xá đông người
Bé ơi nhớ nhé
Đèn xanh được đi
Vàng thì chậm lại
Đèn đỏ bé nhớ
Mau dừng lại ngay
+ Hay trò chơi “Nu na nu nống”; “ Dung dăng dung dẻ” phù hợp với chủ đề: “ Nước và các hiện tượng thiên nhiên”. Tôi đã thay đổi lời của trò chơi:
Nu na nu nống
Nu na nu nống
Sấm động mưa rào
Rủ nhau chạy vào
Chạy mau kéo ướt.
Dung dăng dung dẻ
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Những buổi đẹp trời
Tìm nơi râm mát
Cùng nhau ca hát
Cất tiếng cười vang
Nhảy múa nhịp nhàng
Cho người khoan khoái.
+ Trò chơi “Lộn cầu vồng”; “Tập tầm vông” lời ca phù hợp với chủ điểm “ Bé và gia đình”:
Lộn cầu vồng
Lộn cầu vồng
Nước trong, nước chảy
Các bạn nam giỏi
Các bạn gái tài.
Cùng nhau thi đua
Tham gia học tập
Tập tầm vông
Tập tầm vông
Tay đàng phải
Tay đàng trái
Tập tầm vó
Tay nào có
Tay nào không
Tay nào phồng
Tay nào đẹp?
* Dạy trẻ học thuộc lời ca, lời đồng dao
Thường thì các trò chơi vận động nhằm phát triển về các cơ tay, cơ chân, đều có lời ca, lời hát, đồng dao kèm theo khi trẻ chơi trẻ thường vừa hát vừa chơi hoặc đọc đồng dao nào đó. Các lời hát, đồng dao khiến cho không khí của trò chơi vui vẻ, nhộn nhịp hơn.
– VD: Trò chơi “Trời nắng trời mưa” trẻ vừa hát vừa làm động tác giống các chú thỏ đang chạy nhảy “Trời nắng trời nắng”; Thỏ đi tắm nắng – vươn vai – vươn vai – Thỏ rung đôi tai – Nhảy tới – nhảy tới đùa trong nắng mới… Khi đến câu hát “Mưa to rồi- mưa to rồi” thì trẻ phải chạy nhanh về nhà. Hay trò chơi “Lộn cầu vồng”,“Chi chi chành chành”, trẻ đọc lời ca câu hát đó dường như không có mạch ý nào rõ ràng nhưng thiếu nó thì không thể tiến hành được. Trò chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, lời hát… vừa rèn luyện thể lực vừa là phát triển ngôn ngữ cho trẻ đặc biệt với trẻ nhà trẻ thì trẻ cần phải tập đọc nhiều để vốn từ của trẻ được mở rộng. Chính vì vậy, tôi thường cho trẻ làm quen với lời hát, thơ, ca, đồng dao, trước khi hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ: Hoạt động chiều; Giờ đón – trả trẻ; Hoạt động ngoài trời. Khi trẻ thuộc lời ca, tôi tổ chức cho trẻ chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế trẻ chơi rất hứng thú và tích cực tham gia chơi.
Kết quả: Với việc sử dụng thơ, đồng dao, ca dao trong khi tổ chức các trò chơi vận động trẻ đã được lôi cuốn một cách tự nhiên vào trò chơi, trẻ rất hứng thú một cách chủ động không bị gò bó hay ép buộc.
Giải pháp 4:Tổ chức các trò chơi vận động mọi lúc mọi nơi phù hợp với tính chất của hoạt động.
– Trò chơi vận động là hoạt động cần thiết đối với trẻ. Theo chương trình GDMN, giáo viên có thể tổ chức cho trẻ qua các hoạt động giáo dục sau:
+ Thời gian đón trẻ vào buổi sáng và trả trẻ vào buổi chiều.
+ Trong các buổi vui chơi trong lớp hoặc ngoài trời.
+ Trong các giờ hoạt động học.
– Nếu như hoạt động học nhằm cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất, hay như hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về cách chơi theo nhóm, biết chia sẻ cùng bạn đoàn kết… Chính vì vậy giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các trò chơi vận động cho phù hợp với tính chất của từng hoạt động .
* Với giờ hoạt động học:
– Giờ thể dục: Một giờ thể dục thường chỉ cung cấp cho trẻ một vận động mới và một vận động ôn. Nên giáo viên cần tổ chức vận động ôn cho trẻ thông qua trò chơi vận động nhằm rèn luyện thân thể khỏe mạnh củng cố tố chất nhanh, khéo, luyện tập cho trẻ khả năng phản ứng nhanh đúng theo tín hiệu. Đồng thời phát huy tính tích cực của trẻ khi tham gia hoạt động. Nên lựa chọn các trò chơi vận động nhằm rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải mạnh mẽ, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức khỏe mới có thể vui chơi và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và năng động.
– Hoạt động khám phá: Khi lựa chọn trò chơi cần đáp ứng tiêu chí sau: Nhằm phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cung cấp cho trẻ kỹ năng chơi theo nhóm, kỹ năng sử dụng đồ dùng đồ chơi. Rèn luyện trí nhớ và khả năng tư duy cho trẻ.
+ Ví dụ: Hoạt động khám phá khoa học: “Một số con vật nuôi trong gia đình” sau khi cô cho trẻ nhận biết gọi tên, nhận biết đặc điểm của con gà, con vịt. Thì đến phần trò chơi củng cố cô sẽ cho trẻ chơi trò chơi “Ai nhanh nhất” khi cô nêu đặc điểm hay tiếng kêu của con vật nào trẻ tìm con vật đó giơ lên và nói. Hay trò chơi: “Tìm về đúng chuồng” khi cô yêu cầu trẻ tìm về đúng chuồng thì các cháu đội mũ con vật nào phải về đúng chuồng con vật. Với các trò chơi này có thể áp dụng với nhiều chủ đề khác tùy vào nội dung của trò và chủ điểm mà cô có cách đặt tên khác nhau. Nhưng vẫn mang một mục đích chính nhằm củng cố ôn luyện kiến thức và kỹ năng vận động cho trẻ.
+ Với hoạt động khám phá xã hội: “Một số quy định giao thông đường bộ” sau khi trẻ quan sát các video và đàm thoại về một số quy định về giao thông đường bộ. Đến phần trò chơi củng cố tôi đã cho trẻ chơi trò chơi: “Bé tham gia giao thông” qua trò chơi này giúp trẻ củng cố lại bài vừa học không những vậy tôi thấy trẻ rất hứng thú, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh hơn từ đó giúp trẻ phát triển tốt về thể lực.
+ Hoặc với hoạt động khám phá khoa học: “Một số loại rau” sau khi cho trẻ quan sát và nêu nhận xét về đặc điểm, lợi ích của một số loại rau và đến phần luyện tập củng cố thì tôi đã chọn trò chơi “Hãy chọn đúng” với trò chơi này tạo cho trẻ được thoải mái trẻ không cảm thấy mệt mỏi mà ghi nhớ được lâu và rất thích thú tham gia vào trò chơi.
– Trong giờ làm quen văn học: Để tránh tình trạng trẻ bị nhàm chán mệt mỏi khi ngồi nghe cô kể chuyện tôi luôn tổ chức đan xen những trò chơi vận động để nhằm thay đổi trạng thái giữa động và tĩnh cho trẻ. Từ nội dung câu chuyện tôi chuyển sang trò chơi một cách nhẹ nhàng để trẻ thông qua “Chơi mà học, học mà chơi”.
+ Ví dụ: Trong câu chuyện “Quả trứng” tôi cho trẻ đội mũ vịt vào để chơi trò chơi “ Chuyển trứng vào ổ” sau khi đã chuyển trứng vào ổ tôi nói: “Mời các chú vịt đi ngủ” trẻ ngồi nhắm mắt giả vờ ngủ. Cô giả làm tiếng gà gáy ò ó o…trời sáng rồi trẻ mở mắt ra và cô nói cho trẻ biết số trứng trẻ chuyển về sau một đêm đã nở thành những chú vịt con xinh xắn tôi thấy trẻ rất hứng thú lắng nghe cô kể truyện và đàm thoại với trẻ .
* Với hoạt động ngoài trời:
Tận dụng không gian rộng và thoáng mát, tôi đã lựa chọn các trò chơi vận động, trò chơi dân gian nhằm rèn luyện sự nhanh nhẹn và phát triển thể lực cho trẻ như trò chơi: “Rồng rắn lên mây”; “Cáo và thỏ”; “Trốn tìm”; “Thả đỉa ba ba”; “Mèo đuổi chuột”… Ngoài ra các trò chơi này thường tổ chức cho cả lớp được chơi, tôi luôn động viên tất cả trẻ tham gia vào trò chơi càng đông càng vui khi tất cả cùng nhau tham gia chơi trò chơi cùng bạn chơi sẽ tạo sự gắn bó đoàn kết tạo sự thân thiện giữ các bé với nhau.
* Với hoạt động góc:
Bên cạnh việc tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động trong giờ học, hoạt động ngoài trời trẻ còn được chơi các trò chơi vận động trong giờ hoạt động góc. Trẻ chơi với các dụng cụ ở góc vận động trẻ sử dụng lốp xe ô tô, lốp xe máy hỏng để chơi lăn lốp xe, bật nhảy, ném trúng đích… Hoặc trẻ có thể sử dụng những chiếc tạ làm từ những quả bóng nhựa để phát triển khả năng vận động của đôi tay. Qua đây phát triển hơn và hoàn thiện hơn về thể lực. Tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động theo nhóm nhỏ trong một không gian hẹp: “Kéo cưa lừa xẻ”; “ Chi chi chành chành”; “Cắp cua bỏ giỏ”….
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Khi thực hiện đề tài “Các biện pháp tổ chức trò chơi vận động cho trẻ ở trường Mầm non” tại lớp Nhỡ 1 trường mầm non Đại Hiệp có những thuận lợi và khó khăn như sau:
* Thuận lợi:
– Được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo, Uỷ ban nhân dân xã và Ban giám hiệu nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất, về chuyên môn.
– Phòng học, sân gạch rộng rãi, sạch sẽ, đảm bảo an toàn cho trẻ. Khu vườn cỏ có diện tích phù hợp với nhiều loại đồ chơi ngoài trời.
– Giáo viên trong lớp đoàn kết biết cùng nhau đưa ra các biện pháp tổ chức các trò chơi vận động nhằm phát triển tốt về thể lực cho trẻ.
– Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên ở lớp về tình hình của trẻ ở nhà và luôn quan tâm đến trẻ thường xuyên dành thời gian trao đổi với cô giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ.
– Bản thân tôi là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ tận tình với công việc. Luôn luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày trẻ nhất là việc tổ chức các trò chơi vận động nhằm phát triển tốt về thể lực cho trẻ.
*Khó khăn:
– Việc tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ đòi hỏi phải có sự linh hoạt và tính sáng tạo cao.
– Thời gian tổ chức chơi còn hạn hẹp vì trò chơi không thể diễn ra trong suốt cả một hoạt động của trẻ mà còn chủ yếu được lồng ghép tích hợp vào các hoạt động mà thôi.
– Khả năng chú ý có chủ định của trẻ còn chưa cao. Trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi nhưng cũng nhanh tự rút ra khỏi trò chơi nếu không còn hứng thú.
– Trong lớp còn một số trẻ rụt rè nhút nhát và không thích tham gia vào các hoạt động tập thể. Một số trẻ được bố mẹ nuông chiều từ nhỏ, ít có cơ hội được rèn luyện nên lười vận động.
– Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các trò chơi theo từng chủ đề còn ít, chưa phong phú.
Xuất phát từ đặc điểm chung của trường của lớp và tầm quan trọng của việc tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ nhằm phát triển thể lực cho trẻ và đáp ứng được nhiệm vụ trọng tâm của năm học đã thôi thúc tôi đưa ra một số biện pháp tổ chức các trò chơi vận động nhằm phát triển tốt về thể lực cho trẻ.
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
-Tìm tòi, học hỏi bồi dưỡng bản thân về kiến thức, kỷ năng của 1 số trò chơi vận động.
-Chọn một số trò chơi vận động gần gũi, phù hợp, phát huy tính tích cực, tạo sự hưng phấn của trẻ khi tham gia.
– Áp dụng trò chơi vận động vào các hoạt động thích hợp.
-Kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ để giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, nhanh nhẹn có thể lực tốt để tích cực tham gia vào mọi hoạt động.
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến8:
* Đối với giáo viên:
– Giáo viên trong lớp đã phối kết hợp với nhau chặt chẽ hơn, linh hoạt chủ động hơn trong mọi hoạt động, có nhiều phương pháp hình thức tổ các trò chơi vận động cho trẻ một cách hiệu quả.
– Biết sưu tầm lựa chọn các trò chơi vận động, các hình thức tổ chức các trò chơi vận động gây hứng thú để khuyến khích trẻ tích tham gia đạt hiệu quả cao.
– Khả năng sáng tạo và khả năng làm đồ dùng đồ chơi tăng lên rõ rệt. Đã làm được nhiều đồ dùng đồ chơi sáng tạo để phục vụ cho các trò chơi vận động.
– Đã sưu tầm và sáng tác được lời ca cho một số trò chơi vận động.
– Ba cô cũng đã trao đổi, giúp đỡ, chia sẻ với các chị em đồng nghiệp nhiều kinh nghiệm và hình thức hay để đưa vào tổ chức các trò chơi vận động.
– Kiến tập cấp trường chuyền đề “Phát triển vận động” được ban giám hiệu và các giáo viên toàn trường đánh giá cao.
– Qua hội thi giáo viên giỏi cấp trường đạt giải cao với bài thực hành: Giáo dục thể chất.
* Đối với trẻ
– Về hứng thú cũng như khả năng tiếp thu của trẻ khi chơi các trò chơi vận động: 100% trẻ rất hứng thú và yêu thích, say mê các trò chơi vận động, khi đọc và diễn tả các bài đồng dao các bé rất thích và học thuộc rất nhanh. Khi chơi các trò chơi vận động trẻ thấy thoải mái, tự tin, tự nhiên và cũng rèn luyện cho những trẻ nhút nhát hòa đồng với các bạn trong nhóm, lớp.
– 100% trẻ được mở rộng kiến thức và có thêm rất nhiều hiểu biết về các trò chơi Vận động trò chơi dân gian, các phong tục truyền thống của dân tộc.
– Qua việc thường xuyên được tham gia vào các trò chơi vận động thì nhận thức và thể lực của các trẻ trong lớp tôi được nâng cao rõ rệt. Trẻ nhanh nhẹn, năng động, tự tin và hồn nhiên, mạnh dạn trong giao tiếp với mọi người. Sang học kỳ II không còn trẻ nào suy dinh dưỡng.
– Trò chơi vận động còn giúp các trẻ trong lớp tôi thêm gắn bó với nhau, nâng cao tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể của trẻ.
– Thực hiện tốt đều đặn việc tổ chức các trò chơi vận động và lồng ghép vào các hoạt động giáo dục trong ngày cho trẻ.
– Khi lồng ghép các trò chơi vận động vào trong các tiết học trẻ rất say sưa hứng thú và tiết học đạt kết quả cao, trẻ không thấy mệt mỏi mà cảm thấy sảng khoái sau giờ học.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Lớp học có đủ đồ vận động cho trẻ.
Cô giáo có tấm lòng yêu trẻ, nhiệt tình, chịu thương chịu khó, tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu các các trò chơi vận động, trò chơi dân gian nhằm khơi dậy cho trẻ tính tự ý thức rèn luyện bản thân cũng như tích tích cực khi tham gia các trò chơi vận động thông qua các hoạt động..
Tuyên truyền và vận động phụ huynh cùng phối kết hợp trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Nêu cao vai trò tổ chức các trò chơi vận động trong các hoạt động tại trường, giúp trẻ phát triển thể chất.
1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại9:
Qua quá trình áp dụng sáng kiến trong trường Mầm non Đại Hiệp thì lợi ích mà sáng kiến này đem lại có thể nói rất nhiều.
* Hiệu quả kinh tế: Huy động được hơn 10 công lao động từ nguồn ủng hộ của cha mẹ trẻ đóng góp cho việc làm mới đồ dùng, đồ chơi tự tạo phục vụ cho việc dạy và học.
* Hiệu quả xã hội: Phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con tại trường, yên tâm tin tưởng các cô khi gởi con đến lớp, phấn khởi khi thấy con em mình có thể lực và sức khỏe tốt.
* Hiệu quả trong công tác chuyên môn: Qua thời gian thực hiện, giáo viên trong lớp đã phối kết hợp với nhau chặt chẽ hơn, linh hoạt chủ động hơn trong mọi hoạt động, có nhiều phương pháp hình thức tổ chức các trò chơi vận động cho trẻ một cách hiệu quả.
Biết sưu tầm lựa chọn các trò chơi vận động, các hình thức tổ chức các trò chơi vận động gây hứng thú để khuyến khích trẻ tích tham gia đạt hiệu quả cao. Không những giúp trẻ phát triển tốt hơn về mặt phát triển thể chất mà còn mở rộng vốn hiểu biết của trẻ kích thích trẻ hoạt động tích cực, sáng tạo, yêu thích học tập, trẻ thêm yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo, bạn bè và tích cực đi học hơn. Phụ huynh quan tâm đến hoạt động của con tại trường, yên tâm tin tưởng các cô khi gửi con đến lớp, phấn khởi khi thấy con em mình có thể lực và sức khỏe tốt

Cảm nhận của Phụ huynh

Anh Võ Thành Hưng – Phụ huynh bé: Võ Gia Huy – Lớp nhỡ

ôi chưa từng thấy một ngôi trường mầm non nào có sân chơi rộng rãi – sạch sẽ – thoáng mát và nhiều trò chơi bổ ích như ngôi trường mầm non này ! Thật là bất ngờ thú vị , nó giống như một công viên thiếu nhi thực thụ ! Hàng ngày mỗi buổi sáng , tôi đều cùng bé Gia Huy chơi đùa dưới sân trước giờ học, bé rất thích thú và học hỏi được nhiều điều mới lạ. Và từ một đứa bé rụt rè nhút nhát, đến nay, sau hơn 4 tháng học tập vui chơi ở đây, bé đã được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần lên rất nhiều !