Website Trường Mầm Non Đại Hiệp – Đại Lộc – Quảng Nam

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON. TÁC GIẢ: NGUYỄN THU NGUYỆT

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẦM NON

  1. Mô tả bản chất của sáng kiến:

Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các cháu sớm có một khả năng thích ứng tốt với điều kiện xung quanh một cách lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều tốt cho chính mình cũng như cho cộng đồng. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống mọi lúc mọi nơi, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mầm non đặc biệt là trẻ 5 – 6 tuổi là một nhiệm vụ đang được ngành giáo dục triển khai và thực hiện khá tốt trong trường mầm non. Tùy theo lứa tuổi, các cháu sẽ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, thích nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo niềm vui, tự bảo vệ mình, kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự giải quyết một số tình huống phù hợp với lứa tuổi. Trẻ được tiếp cận  những kỹ năng cơ bản của lứa tuổi như kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng học tập, kỹ năng tự phục vụ….

Kỹ năng sống còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để có được kỹ năng sống trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên lâu dài với sự hỗ trợ của gia đình và nhà trường để hình thành những thói quen tốt, những kỹ năng tốt có lợi trong quá trình sống của trẻ sau này.

1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:

1.1.1.Xác định những kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ :

+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ, bằng cách tập trẻ phát ngôn đúng, ứng xử đúng, có trách nhiệm với hành động của mình, chuẩn bị mọi thứ đều tốt trước khi nói hoặc làm việc gì để biết rằng việc ấy mình làm đúng, từ đó trẻ sẽ tự tin trước bản thân mình, trước đám đông, mọi người, đó chính là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.

+ Kỹ năng sống hợp tác: Thông qua các trò chơi, câu chuyện, bài hát, các hoạt động trực nhật, giúp cô, giúp bạn trong lớp giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, với cô với mọi người, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông, biết sức mạnh tập thể, dạy trẻ câu ca dao “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao” là ý nghĩa của kỹ năng sống hợp tác, từ đó trẻ có ý thức hơn và cùng làm việc với các bạn một cách có trách nhiệm và hiệu quả.

+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học, được muốn biết, được tìm hiểu những sự vật hiện tượng lạ, quen…. ở xung quanh trẻ, kỹ năng đặt mình vào tình huống của người khác để có sự thấu hiểu và có sự thông cảm, sẻ chia…. dù đó là việc khó khăn hay thuận lợi.

+ Kỹ năng giao tiếp: Dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trong cư xử hoặc giao tiếp hàng ngày, biết nói lời hay, biết có ý nghĩ đẹp, thái độ và hành động đúng, trong giao tiếp không chỉ là kỹ năng giao tiếp bằng lời nói mà cô giáo còn dạy trẻ cả những kỹ năng biểu cảm trên nét mặt, hành động để giao tiếp, đó chính là kỹ năng giao tiếp có văn hóa, giúp trẻ cảm nhận được vị trí, vốn kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ tự tin sẵn sàng học mọi thứ.

Bên cạnh đó, ở trường mần non cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn khi nhận quà, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa, biết tiểu tiện đúng nơi quy định … hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết xuất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.

1.1.2.Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học :

Việc đưa giáo dục kỹ năng sống vào chương trình giáo dục ở trường mầm non là một vấn đề không đơn giản, bởi lẽ nhận thức của trẻ còn hạn chế, trẻ luôn muốn được phục vụ, thao tác vụng về, ngôn ngữ diễn đạt chưa tốt, hành động đôi lúc còn bộc phát nên có phần khó giáo dục, mặt khác giáo dục kỹ năng sống không cụ thể như một môn học nào trong chương trình và nó cũng không là một hoạt động riêng biệt mà nó được lồng ghép, đan xen vào tất cả các hoạt động. Trong lúc soạn giảng tôi luôn suy nghĩ, sáng tạo, tùy tình hình bài giảng mà lồng ghép những nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp theo từng chủ đề, từng môn học, từng đề tài để dạy trẻ nhằm hình thành những thói quen, hành vi có văn hóa cho các cháu.

Ví dụ:

* Hoạt động phát triển thể chất:

Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau…, ngoài ra còn rèn luyện kỹ năng khéo léo khi luyện tập các bài tập tung, ném, lăn bóng hay bò, trườn, trèo, chạy, nhảy, đi trên ghế thăng bằng….., có kỹ năng khéo léo thì trẻ mới tập được bài tập đạt hiệu quả, trước khi ném bóng cần có kỹ năng bình tỉnh, ngắm nhìn đích đúng, động tác cầm bóng, vung tay làm sao để bóng vào đúng đích…..

* Hoạt động khám phá khoa học:

Trong chủ đề: Bản thân

– Trẻ biết chia sẻ với mọi người về bản thân mình như: tên, tuổi, sở thích, ngày sinh nhật, phát âm, phát triển ngôn ngữ, luyện nói đúng câu, đúng từ, chủ ngữ, vị ngữ, nói mạch lạc, tự tin trước đám đông, không ấp a ấp úng….Từ đó trẻ mạnh dạn, nói chuẩn hơn trong giao tiếp, biết lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt mình nói, Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.

* Hoạt động tạo hình: “Vẽ người thân”

Cô giáo dục trẻ biết yêu quý những người thân trong gia đình và phải biết cư xử lễ phép, biết chào hỏi, cảm ơn khi được nhận quà, có kỹ năng cầm bút, tư thế ngồi, kỹ năng tô màu, vẽ, xé dán, làm thiệp…. một cách khéo léo, ngoài ra trẻ còn luyện tập trẻ kỹ năng, thói quen lấy và cất đồ dùng học tập, đồ chơi đúng nơi quy định, tự phục vụ bản thân trong giờ học, biết giúp cô dọn dẹp, kê bàn ghế, chuẩn bị học liệu trước khi học…..

Để giúp trẻ có được những kỹ năng sống thông qua hoạt động học giáo viên phải là người hỗ trợ và hướng trẻ đi đến những kỹ năng đó

1.1.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi :

Như chúng ta đã biết vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Thông qua hoạt động vui chơi tạo ra cho trẻ những nét tâm lý mới, đặc biệt là sự hình thành nhân cách của trẻ trong những mối quan hệ giữa những trẻ em cùng chơi với nhau và nó kéo theo sự phát triển trong toàn bộ đời sống tâm lý trẻ. Trong quá trình chơi trẻ không chỉ nắm được cách sử dụng đồ vật do con người sáng tạo ra mà còn học được quy cách ứng xử giữa con người với con người trong xã hội thông qua vai chơi. Vì vậy, tôi tiến hành lồng ghép dạy kỹ năng sống cho trẻ qua hoạt động vui chơi. Qua đó trẻ được giao tiếp với nhau bằng những lời nói nhỏ nhẹ, ân cần, lễ phép, những lời cảm ơn, xin lỗi, trao nhận bằng hai tay …luôn được thể hiện.Tôi theo dõi lắng nghe để kịp thời uốn nắn trẻ khi có biểu hiện chưa chuẩn mực. Qua đó giúp trẻ hình thành thói quen hành vi văn minh trong giao tiếp.

Ví dụ:

+ Trò chơi xây dựng: Xây công viên

Xã hội của trẻ em được hình thành một cách thú vị: có thủ lĩnh, có nhóm, có sự hợp tác giúp đỡ nhau để hoàn thành công trình, có những cơ hội để phát triển trí tưởng tượng của trẻ. Thông qua trò chơi này những kỹ năng sống như: tự tin, giao tiếp, hợp tác, tìm tòi khám phá được hình thành

+ Trò chơi đóng vai: Bác sĩ:

Bác sĩ phải biết hỏi thăm bệnh nhân một cách ân cần, “Cháu vì sao đau? Cháu đau chỗ nào? Cháu có mệt lắm không? …”

Bệnh nhân khi bác sĩ hỏi phải trả lời rõ ràng

+ Trò chơi đóng vai: Bán hàng

Người bán hàng phải biết chào hỏi khách hàng: Cô, chú mua gì ạ?

Người đi mua hàng trật tự khi mua, nói tên hàng cần mua: Bán tôi một bó rau, bao nhiêu vậy cô? Qua hoạt động vui chơi trẻ dần dần được rèn kỹ năng giao tiếp, ứng xử, chào hỏi mạnh dạn hơn đối với mọi người.

Trong một thời gian rèn luyện trẻ lớp tôi kỹ năng chào hỏi lễ phép, giao tiếp lịch sự có phần chuyển biến rất tốt.

Thông qua trò chơi phân vai cô giáo dần hình thành cho trẻ những kỹ năng cần thiết của vai mình đảm nhận, biết xử lý một số tình huống trong khi chơi một cách nhẹ nhàng, hợp lý được cô và các bạn đồng tình hưởng ứng.

1.1.4. Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi :

Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là: “Dễ nhớ, mau quên” nên việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần được tiến hành mọi lúc, mọi nơi và được thực hành bằng những tình huống cụ thể giúp chính bản thân trẻ có những phản xạ cần thiết thích hợp với tình huống xảy ra. Có như vậy mới giúp trẻ khắc sâu được những gì mà trẻ được lĩnh hội.

Ví dụ: Giờ đón trẻ và trả trẻ tôi ân cần và chuẩn mực trong cách xưng hô với bố mẹ trẻ, tôi tập cho trẻ chào thưa lễ phép với cô và bố mẹ trẻ khi đến lớp cũng như ra về.

Với giờ hoạt động ngoài trời, khi tổ chức các trò chơi dân gian tôi đều quan tâm nhắc nhở trẻ luôn có những ý thức và hành động tốt như biết đoàn kết vui chơi cùng bạn, khi làm việc gì sai với bạn với cô thì phải biết xin lỗi.

Với giờ ăn trưa, tôi luôn giáo dục trẻ biết biết giữ vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn, biết làm những việc giúp đỡ cô như kê bàn ghế và những hành vi văn minh trong ăn uống như: ăn từ tốn, trong khi ăn không được nói chuyện, ăn không rơi vãi, không cười đùa….

1.1.5. Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ:

Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ mầm non, đặc biệt trong giáo dục kỹ năng sống.

Tôi đã phối hợp cùng với nhà trường xây dựng kế hoạch tổ chức các ngày hội ngày lễ với nội dung đa dạng, phong phú và hấp dẫn. Trong đó trẻ luôn được phát huy khả năng một cách tích cực, trẻ được tham gia biểu diễn văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian mà đặc biệt là trẻ được phát huy khả năng phối hợp, khả năng giao tiếp, khả năng biểu diễn, khả năng vui chơi, tham gia các trò chơi vừa mang tính đồng đội vừa mang tính cá nhân rất cao…

Cụ thể là các hoạt động nổi bật như sau:

– Tháng 9: Tổ chức ngày hội “Vui hội đến trường” và “Vui hội trăng rằm”.

– Tháng 11: Tổ chức ngày hội “Ngày vui của cô giáo”.

– Tháng 12: Tổ chức ngày hội “Chú bộ đội của em”

– Tháng 01: Tổ chức ngày hội “Chúng cháu hát mừng xuân”, tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ với chủ đề “ Bé hát dân ca “ thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….Tổ chức cho trẻ vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân như: Đua thuyền trên cạn, lò cò, cướp cờ …

– Tháng 03: Tổ chức ngày hội “Ngày vui mồng tám tháng ba”

– Tháng 05: Tổ chức đêm văn nghệ “Chúng cháu hát mừng sinh nhật Bác”, múa hát vui chơi trong ngày tổng kết năm học và lễ ra trường cho trẻ 5 tuổi.

1.1.6. Giáo dục kỹ năng sống qua hình ảnh trực quan:

Tôi suy nghĩ và làm một góc kỹ năng sống được trang trí đẹp, hấp dẫn, vừa tầm trẻ. Dựa vào tình hình nề nếp lớp tôi sưu tầm tranh ảnh dán lên, dưới mỗi ảnh có một câu thơ  giáo dục trẻ

Ví dụ: Trong lớp có cháu nhận quà bằng một tay, giành đồ chơi của bạn …Dưới mỗi ảnh có câu: “Trao đồ lễ phép hai tay, hai tay đón nhận  điều hay bé làm” “thật thà trung thực khi chơi, làm sai biết lỗi đồng thời đáng khen”

Vào buổi sáng lúc đón trẻ tôi cùng các cháu  tập trung vào góc kỹ năng sống chơi trò chơi “ nhìn tranh đoán việc làm” để nhắc nhở trẻ. Qua góc kỹ năng sống có treo các ảnh trực quan khắc sâu  nơi trẻ những hành vi đẹp, đúng, đồng thời  rèn luyện ở trẻ tính tự giác nhận lỗi của bản thân. Sau một tuần thực hiện tôi thay đổi các hình ảnh  khác có nội dung giáo dục khác

Khi áp dụng các biện pháp trên tôi đạt được một số kết quả như sau:

90% cháu biết thực hiện những hành vi có văn hóa trong cuộc sống hàng ngày. Có thái độ đúng với người lớn, cô giáo, bạn bè và những người xung quanh. Có tình cảm tốt đối với sự vật và hiện tượng xung quanh, biết yêu  quý bảo vệ, chăm sóc  thiên nhiên  môi trường, con vật nuôi  v.v..

1.1.7.Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình :

Để phụ huynh hiểu đựơc tầm quan trọng của việc giúp trẻ có những kỹ năng sống, hành vi văn hoá ngay từ tuổi còn rất nhỏ tôi kết hợp môi trường giáo dục và tận dụng mọi đối tượng cùng giáo dục trẻ bằng cách động viên họ tham gia mọi phong trào của lớp, của trường đề ra.

Muốn làm được điều đó tôi đã phải lên kế hoạch rõ như:

– Tổ chức họp phụ huynh đầu năm tôi đã thông báo đặc điểm tình hình trường lớp, nội dung dạy dành cho trẻ 5 tuổi, nhấn mạnh điểm khó khăn của lớp để kịp thời cùng phụ huynh uốn nắn trẻ.

– Xây dựng tốt góc tuyên truyền tại lớp, thường xuyên thay đổi nội dung tuyên truyền để phụ huynh nắm được thông tin chính xác và gần nhất, tôi luôn chú trọng vấn đề phối hợp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

– Thông báo bảng chương trình dạy theo tuần để phụ huynh kết hợp dạy trẻ ở nhà.

– Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về những trường hợp cá biệt để phụ huynh có kế hoạch giáo dục trẻ thêm. Phụ huynh có thể dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá của lớp.

– Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau.

– Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.

– Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác, thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ, người lớn trong gia đình cần là tấm gương sáng cho trẻ noi theo từng hành động, lời ăn tiếng nói, giao tiếp, cư xử, thói quen hàng ngày cần đúng mực, tránh những nỗi bực dọc, những phát ngôn không hay trước mặt trẻ, vì tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng, trẻ dễ bắt chước, vì thế là người lớn chúng ta hãy nên có kỹ năng sống chuẩn mực để trẻ noi theo.

Kết quả công tác tuyên truyền phụ huynh hăng hái nhiệt tình ủng hộ các hoạt động của lớp đề ra.

1.1.8.Cô giáo là tấm gương sáng :

“ Trường học là tổ ấm, cô giáo như mẹ hiền”

Ở trường, cô giáo là người rất quan trọng đối với trẻ. Với vai trò là một người giáo viên tôi luôn nghĩ làm sao phải tạo được cho trẻ một môi trường thật thoải mái như là “tổ ấm”. Tôi luôn gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ

Trẻ nhỏ luôn chú ý mọi hoạt động của người lớn và bắt chướt rất nhanh. Vì vậy cô phải luôn luôn chuẩn mực trong mọi lĩnh vực: như cách giao tiếp với phụ huynh, với đồng nghiệp…Tôi luôn ân cần dịu dàng thương yêu trẻ, luôn tạo mối thân thiện giữa cô và trẻ. Cô là tấm gương cho trẻ thực hiện và noi theo.

Ví dụ: Khi được người khác giúp đỡ hay cho một món quà thì phải biết lấy bằng hai tay và cảm ơn.

Khi trẻ uống sữa xong hay một vỏ kẹo nào đó cô nhắc nhở trẻ phải bỏ vào thùng rác và hỏi trẻ “nếu chúng ta không bỏ vào thùng rác mà vứt lung tung thì sẽ như thế nào”, cô giải thích cho trẻ hiểu và cứ như vậy dần dần hình thành ở trẻ ý thức và hành vi có văn hóa, những kỹ năng đẹp trong sinh hoạt hàng ngày.

Cô giáo như mẹ hiền, câu ca ấy đã khắc sâu trong mỗi ký ức trẻ thơ, từ khi mới bước chân vào trường lớp Mẫu giáo, mỗi hành động, cử chỉ, lời nói của cô giáo là một hành trang cho bé vào đời, vì tâm hồn bé như một trang giấy trắng. Muốn vẽ lên trang giấy ấy những hình ảnh đẹp, trước hết cô giáo phải là người họa sĩ tâm hồn, mọi lúc, mọi nơi luôn là tấm gương sáng, để đạt được điều đó chúng tôi giáo dục trẻ xem lớp học là gia đình thứ 2

Tạo môi trường thân thiện, an toàn cho trẻ hoạt động vui chơi

Trẻ biết hợp tác với cô, với bạn, thông qua hoạt động học, hoạt động chơi, giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, biết chia sẻ hợp tác. Đây là việc làm không nhỏ ở lứa tuổi này. Khả năng hợp tác giúp trẻ cảm thông và cùng làm việc với bạn tốt hơn. Qua việc trẻ biết hợp tác với bạn, trẻ còn biết hợp tác với cô giáo, cô giáo là người hướng trẻ đến đích cuối cùng

Trẻ sống tự tin là một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ, từ đó trẻ sẽ có hành vi đúng, hành vi đẹp, hành vi văn hóa ở mọi lúc đối với mọi người, mọi hiện tượng xung quanh. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống, hành vi văn hóa  này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi

Ví dụ : Giáo viên luôn động viên khuyến khích trẻ khi trẻ làm đúng, không chê trẻ hoặc từ chối lời đề nghị của trẻ trước tập thể.

Phát huy tính tự lập ở trẻ, cho trẻ nói lên những suy nghĩ, hiểu biết của mình những gì trẻ thấy và hiểu.

1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:

*Ưu điểm:

Giáo viên xác định được một số nguyên tắc lựa chọn cung cấp kiến thức, tổ chức trò chơi, những hoạt động trong lớp để hình thành  kỹ năng sống tích cực cho trẻ mẫu giáo lớn.

Khối kiến thức, lượng trò chơi và các hoạt động mà giáo viên cung cấp cho trẻ trong quá trình học và chơi ở trường mầm non là không thể thiếu. Chính vì vậy giáo viên biết vận dụng để hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, đây là việc làm cần thiết và hữu ích giúp trẻ lĩnh hội kiến thức, biết những kỹ năng sống cần thiết phục vụ bản thân, mọi người trong cuộc sống hàng ngày bên cạnh với sự giáo dục, bảo ban, rèn luyện của cô giáo để trẻ được sống trong  môi trường giáo dục tốt thì sẽ có những đức tính tốt, kỹ năng tốt

Mọi thành viên có kỹ năng sống tốt sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đem lại niềm vui, tiến bộ trong quan hệ hoạt động vui chơi lành mạnh, làm việc hiệu quả, công tác, lao động tích cực giữa người với người.

Thông qua giáo dục kỹ năng sống  trẻ sẽ từng bước chiếm lĩnh tri thức, thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra, nâng cao khả năng thích ứng với các hành vi đẹp, hành động hay, tăng cường nhận thức đúng đắn về những điều nên làm, không nên làm như kỹ năng tự phục vụ bản thân, kỹ năng nói lời hay, có ý nghĩ đẹp, kỹ năng học tập, ăn ngủ, vệ sinh …… cần thiết cho bản thân mỗi trẻ

*Nhược điểm:

Phụ huynh đa số làm công nhân theo ca, một số phụ huynh còn lại như cuốn theo nhịp sống bận rộn không có nhiều thời gian cho việc chăm sóc giáo dục con cái. Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con nên cưng chiều, xem như là những cô cậu ấm, được quan tâm chăm sóc một cách đặc biệt đến mức thái hóa, mọi việc của trẻ đều được người lớn làm thay, trẻ ít có điều kiện giao tiếp với môi trường bên ngoài nên hầu như kỹ năng thích ứng và ứng phó với những tình huống xảy ra trong cuộc sống của trẻ rất hạn chế,

50 % trẻ trong lớp lần đầu tiên đến trường mầm non, đối với các trẻ này thì việc tiếp xúc với mọi người xung quanh chưa nhiều, chưa mạnh dạn trong giao tiếp, các kỹ năng cơ bản còn hạn chế

Số lượng trẻ trong lớp quá đông nên việc uốn nắn hành vi, cử chỉ cho từng trẻ cũng là vấn đề khó khăn.

1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại – Xác định những kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ

– Giáo dục kỹ năng sống thông qua tiết học

– Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi

– Giáo dục kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi

– Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ

– Giáo dục kỹ năng sống qua hình ảnh trực quan

– Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình

– Cô giáo là tấm gương sáng

1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến8:

Sau khi áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy chất lượng  giáo dục về kỹ năng sống cho trẻ được tăng lên rõ rệt. Trẻ ngoan hơn, lễ phép hơn, trẻ được hình thành những thói quen vệ sinh văn minh, giao tiếp mạnh dạn với mọi người, biết chào hỏi khi có khách đến, biết trao nhận bằng hai tay, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè, cô giáo, ba mẹ, ngôn ngữ mạch lạc, tự tin, suy nghĩ trước khi nói, thường xuyên nói lời hay, có ý nghĩ đẹp…

*Kết quả đạt trên trẻ:

– Mạnh dạn tự tin: 90 %; kỹ năng hợp tác:  93%; kỹ năng giao tiếp 92,3%; phát âm rõ lời: 94%; tự lập, tự phục vụ: 92,6 %; lễ phép: 96%; kỹ năng vệ sinh: 92 %; kỹ năng thích khám phá học hỏi: 90 %; kỹ năng tự kiểm soát bản thân: 93%

– Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt trên 96%  và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp gối, chiếu sau khi ngủ,  …

– Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, qua giờ đón trả trẻ, liên lạc qua điện thoại để giáo dục trẻ ở nhà…..

– Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con,  ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự đi lên lầu, tự xúc cơm…

1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:

  1. Điều kiện về con người:

Cô giáo có tấm lòng yêu trẻ, nhiệt tình, chịu thương chịu khó, tìm tòi, sáng tạo cung cấp kiến thức, rèn luyện kỷ năng cho trẻ qua các trò chơi, các hoạt động học tập trong ngày khơi dậy cho trẻ tính tự giác, lòng kiên trì nhẫn nại, biết giúp đỡ mọi người và có hành vi đẹp trong cuộc sống.

Tuyên truyền với phụ huynh nội dung, phương pháp rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ, hướng dẫn, khuyến khích phụ huynh cùng tham gia giáo dục trẻ lúc ở nhà và phát huy, cũng cố những kỹ năng mà cô giáo đã dạy ở trường, làm gương cho trẻ bằng những lời nói, ứng xử và hành động đẹp để trẻ học tập noi theo ……

Nêu cao vai trò của việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ nhằm hình thành phẩm chất con người mới, tuy nhiên cô giáo cần kiên trì nhẫn nại, từng bước có cách giáo dục phù hợp, đây cũng là điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp.

  1. Điều kiện về cơ sở vật chất:

Lớp học có đủ đồ dùng theo quy định tại thông tư số 34 của bộ GDĐT, phòng học đủ diện tích, đủ số lượng trẻ theo quy định tại Điều lệ trường mầm non

1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại:

Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non, việc trang bị cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản, đơn giản nhất giúp trẻ thích ứng với cầu xã hội và cuộc  sống hiện tại là một yêu cầu cấp bách và thiết thực cần được xã hội quan tâm và nhận thức một cách đúng đắn. Đặc biệt ở trường mầm non, việc chú trọng và đầu tư đúng mức về vấn đề này sẽ là tiền đề cho chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường. Vì thế vấn đề tôi nghiên cứu và những biện pháp mà tôi đã áp dụng ở lớp là rất thiết thực và là yêu cầu không thể thiếu và thực tế qua thời gian áp dụng ở trường MN Đại Hiệp đã có nhiều kết quả đáng kể.Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi  một số hạn chế rất mong được sự hổ trợ của các cấp lãnh  đạo và các bạn đồng nghiệp.

Lợi ích tôi đã thu được do áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này lần đầu tại lớp lớn 4 là:

– Giáo viên nắm vững phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

– Bản thân giáo viên trong lớp luôn là tấm gương sáng mẫu mực, có cách ứng xử, lời nói chuẩn xác, hành động đẹp không phân biệt giữa các trẻ.

– Cô yêu nghề mến trẻ, tận tuỵ với công việc của mình, luân kiên trì tìm tòi, nghiên cứu các phương pháp, hình thức dạy trẻ phù hợp, có kết quả cao.

– Rèn trẻ mọi lúc mọi nơi, đặc biệt quan tâm đến trẻ chậm, trẻ cá biệt.

– Giáo viên trao đổi thường xuyên với phụ huynh những gì mà trẻ chưa thực hiện được để tìm ra cách dạy trẻ tốt hơn.

– Giáo viên luân tạo cơ hội cho trẻ tự làm được các việc hợp với khả năng của trẻ và có hành vi văn hóa.

  1. Những thông tin cần được bảo mật: Không
  2. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
    sáng kiến lần đầu – nếu có:
TT Họ và tên Nơi công tác Nơi áp dụng sáng kiến Ghi chú
1 Nguyễn Thị Tuyết Anh Trường MN Đại Hiệp Tại lớp Lớn 4 trường MN Đại Hiệp  
2 Nguyễn Thị Hiền Trường MN Đại Hiệp Tại lớp Lớn 3 trường MN Đại Hiệp  

Đại Hiệp, ngày 01tháng 11 năm 2021                                                                       Người nộp đơn

 Nguyễn Thu Nguyệt

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cảm nhận của Phụ huynh

Anh Võ Thành Hưng – Phụ huynh bé: Võ Gia Huy – Lớp nhỡ

ôi chưa từng thấy một ngôi trường mầm non nào có sân chơi rộng rãi – sạch sẽ – thoáng mát và nhiều trò chơi bổ ích như ngôi trường mầm non này ! Thật là bất ngờ thú vị , nó giống như một công viên thiếu nhi thực thụ ! Hàng ngày mỗi buổi sáng , tôi đều cùng bé Gia Huy chơi đùa dưới sân trước giờ học, bé rất thích thú và học hỏi được nhiều điều mới lạ. Và từ một đứa bé rụt rè nhút nhát, đến nay, sau hơn 4 tháng học tập vui chơi ở đây, bé đã được phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần lên rất nhiều !