Website Trường Mầm Non Đại Hiệp – Đại Lộc – Quảng Nam

Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo” . Tác giả: Hà Thị Thu

Mẫu 3

                        CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

 

Kính gửi: – Hội đồng Sáng kiến huyện Đại Lộc.

Tôi ghi tên dưới đây:

 

TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến
1 Hà Thị Thu 01/10/1982 Trường Mầm Non Đại Hiệp Giáo viên ĐHSPMN 100%

 

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”

1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Hà Thị Thu

2- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trong trường Mầm non, mẫu giáo của ngành học mầm non.

3- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Ngày 05/11/2020

4- Mô tả bản chất của sáng kiến:

Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em, là một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục mầm non. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá.

Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện, đặc biệt là kể chuyện sáng tạo sẽ giúp trẻ giúp trẻ phát triển tư duy, óc tưởng tượng bay bổng, phát triển khả năng mạnh dạn, tự tin vào chức năng tâm lý của chính bản thân, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, rõ ràng hơn. Kể chuyện sáng tạo giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý của trẻ, là phương tiện phát triển năng lực tư duy, sáng tạo, biết yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá.

Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo” nhằm giúp trẻ có được một môi trường tốt nhất, tạo điều kiện cho các con có cơ hội tự do sáng tạo, tích lũy được những kiến thức về thế giới xung quanh một cách tự nhiên nhất, giúp cho trẻ mở rộng vốn từ một cách chủ động, luyện phát âm, phát triển khả năng biểu đạt, trẻ biết tự làm sách và biết cách lật từng trang sách….. Đặc biệt trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, tự tin khi kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của mình.

Năm học 2020- 2021, tôi được nhà trường  giao cho phụ trách lớp mẫu giáo 5-6 tuổi. Hiểu được tầm quan trọng đó, Giáo viên phải là người tổ chức hướng dẫn các hoạt động cho trẻ phải phù hợp với trình độ, độ tuổi với mỗi trẻ. Hơn nữa trẻ mầm non học bằng chơi, học bằng các giác quan, bằng thử nghiệm, bằng thực hành, tương tác chia sẻ kinh nghiệm, bằng tư duy suy luận. Trẻ thích khám phá những điều mới lạ xunh quanh. Vì vậy khi tổ chức các  hoạt động giáo dục nói chung, hoạt động kể chuyện sáng tạo nói riêng, giáo viên cần tạo nhiều cơ hội, tình huống, kích thích trẻ tự tin, độc lập, sáng tạo, tích cực, hào hứng, thoải mái tham gia vào các hoạt động một cách chủ động, làm giàu thêm vốn kinh nghiệm cho trẻ  khi tham gia vào các trải nghiệm, tạo mọi cơ hội cho trẻ phát triển ngôn ngữ.  Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra đề tài “Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi  ở trường mầm non  thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”.

Thực tế trong thời gian qua tôi và một số đồng nghiệp đã áp dụng sáng kiến vào lớp mình phụ trách thông qua hoạt động của chuyên đề cấp huyện tôi đã thực hiện vào sáng ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trường Mầm non Đại Hiệp. Sáng kiến đã mang lại lợi ích thiết thực cho lớp rất nhiều bởi lẽ Một số biện pháp có tính thiết thực và sáng tạo nên áp dụng dễ đạt hiệu quả.

4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:

*Ưu điểm:

Trường mầm non Đại Hiệp đến nay là ngôi trường mới rất đẹp, khang trang và rộng rãi với đầy đủ các trang thiết bị dạy và học. Ngoài những khu vui chơi phục vụ cho tất cả hoạt động, Nhà trường còn trang trí riêng một khu phục vụ cho hoạt động phát triển ngôn ngữ nói chung và hoạt động kể chuyện sáng tạo nói riêng với đầy đủ các đồ dùng tranh ảnh, sách, tranh truyện, rối, sân khấu…phù hợp với từng độ tuổi theo các chủ đề rất đẹp và lôi cuốn trẻ.

Trong phòng học tại lớp Lớn 1 tôi luôn trang trí phù hợp với các sự kiện, môi trường đẹp, gần gũi, hấp dẫn trẻ với sĩ số là 33 cháu.

Giáo viên trong lớp phối hợp nhịp nhàng và làm rất nhiều đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ học và chơi.

Được phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ và cùng phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ.

Đề tài dựa vào quan điểm giáo dục trẻ em phát triển toàn diện việc đưa chương trình chăm sóc giáo dục trẻ, lấy trẻ làm trung tâm  dựa trên tâm lý của trẻ để rút ra một số phương pháp biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kể chuyện sáng tạo giúp trẻ tìm tòi khám phá, phát triển ngôn ngữ trong mọi vấn đề xung quanh trẻ. Dựa trên các hoạt động  kể sáng tạo và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ  để xây dựng những nội dung, hình thức, trò chơi học tập nhằm góp một phần nhỏ vào đổi mới phương pháp dạy học nâng cao hiệu quả cho tiết học, giờ học sôi nổi say mê không gò bó và mệt mỏi.

Hình thức tổ chức dạy học trong giáo dục mầm non là tổng  hợp các cách thức hoạt động của giáo viên và trẻ. Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của giáo viên, trẻ tự giác, tích cực tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nhiều thói quen tốt để hình thành một nhân cách phát triển toàn diện nhất.

Trẻ mẫu giáo sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc chịu ảnh hưởng lớn của việc tích cực hoá vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở rộng hơn, có trật tự hơn, mặc dù cấu trúc còn chưa hoàn thiện. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã bắt đầu phát triển.

Với nhiệm vụ khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện sáng tạo. Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể chuyện sáng tạo trẻ phải tự nghĩ ra một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc logic được thể hiện trong lời nói tương ứng (lời nói kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan).

Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng sáng tạo, khả năng phán đoán và ghi nhớ ở trẻ, kỹ năng tự học ở trẻ( giải quyết vấn đề, mạnh dạn, tự tin trước đám đông ) biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong  phú, chú ý có chủ định.Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ.

*Hạn chế:

Qua việc áp dụng sáng kiến đem lại một số hiệu quả trong giáo dục trẻ vẫn còn một số khó khăn, hạn chế trong quá trình áp dụng như:

Lớp tôi nhiều cháu còn nhút nhát, chưa mạnh dạn khi tham gia vào các hoạt động nên rất hạn chế trong việc chủ động sáng tạo.

Trong quá trình tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo cô cho trẻ kể lại chuyện có sẵn trên nền tranh cô đã chuẩn bị hoặc xếp tranh theo gợi ý cô (áp đặt) và cung cấp nội dung cho trẻ kể nên việc hoạt động nhóm thường không có hiệu quả, chủ yếu trẻ cầm tranh để chuẩn bị lên xếp theo thứ tự đã được phân trước.

Giáo viên thường tổ chức hoạt động kể chuyện sáng tạo như một nội dung hỗ trợ cho hoạt động khác, không tổ chức như một hoạt động chính thức.

4.2. Nội dung đã cải tiến sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp.

 Biện Pháp 1: Tạo môi trư­ờng học tập cho trẻ chủ động kể chuyện sáng tạo

Có thể nói việc xây dựng môi trường giáo dục trong trường Mầm non là thực sự cần thiết và quan trọng. Việc này được ví như người GV thứ hai trong công tác tổ chức, hướng dẫn cho trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ, thông qua đó nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện.

Hoạt động kể chuyện là một hoạt động rất hấp dẫn đối với trẻ. Việc tạo ra một môi trường đồ dùng, phương tiện, thật đa dạng phong phú đầy màu sắc mang tính nghệ thuật về thiên nhiên, xã hội và con người xung quanh trẻ nhằm gây hứng thú, kích thích lôi cuốn trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động như: làm thật nhiều đồ dùng, đồ chơi khác nhau cả hình dáng, lẫn màu sắc, sưu tầm nhiều sách báo, đặc biệt là truyện tranh và truyện cổ tích, cắt dán hình ảnh những truyện tranh sáng tạo theo chủ đề, các con vật cắt rời cho trẻ tự chọn để trẻ ghép tranh  hoặc làm những con rối que, rối tay cho trẻ hoạt động theo nội dung, nhân vật của câu chuyện,  trẻ kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình, từ đó phát triển được khả năng sáng tạo ở trẻ giúp hoạt động ngôn ngữ đạt hiệu quả tốt.

Bên cạnh tạo thế giới vật chất thì quan hệ giữa giáo viên và trẻ phải thể hiện tình cảm yêu thương, thái độ tôn trọng, tin tưởng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư nguyện vọng của mình. Đặc biệt, giáo viên phải biết linh hoạt sáng tạo, trong tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ, làm bổ sung thay đổi các đồ dùng đồ chơi, tận dụng những đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương sử dụng với nhiều mục đích khác nhau.

Bên cạnh đó trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn tận dụng những bức tranh tường trong sân trường, góc dân gian, góc thiên nhiên, vườn cổ tích, đặc biệt là khu kể chuyện sáng tạo,góc thư viện… những biểu bảng, cây xanh … trong trường bằng cách gợi mở cho trẻ cùng nhau kể chuyện về những bức tranh đó hoặc có các con vật trong sân trường tôi cũng gợi mở cho trẻ thi nhau kể chuyện về các con vật đó, hình thức này đã giúp trẻ em có nhiều ý tưởng sáng tạo hay và có ý thức thi đua để đạt kết quả tốt.

Biện pháp 2: Dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo :

Bên cạnh một môi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo. Khi dạy trẻ sáng tạo tôi đã chuẩn bị cho trẻ những tập truyện tranh sưu tầm bằng cách đọc kể cho trẻ nghe ở các giờ đón, giờ trả trẻ và  giờ chơi hàng ngày.

Mở cho trẻ nghe những câu chuyện cổ tích với nhiều chủ đề. Sử dụng những con rối, những hình ảnh ghép thành bức tranh sáng tạo ra câu chuyện kể cho trẻ nghe. Giúp trẻ làm giàu được vốn từ khi kể sử dụng cho câu chuyện hay hơn. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng tạo.

Ví dụ: Sói hung ác. Phù thủy độc ác. Thỏ thông minh. Ông bụt tốt bụng… hay dùng những cụm từ : nhiều con cá thì trẻ có thể gọi một đàn cá, nhiều con vịt thì gọi đàn vịt, Hoặc các cụm từ chuyển tiếp: một lát sau, vào một ngày đẹp trời….

*Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan.

Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.

Dạy trẻ ghép tranh, nhân vật kể chuyện: chọn những tranh, nhân vật mà trẻ thích ghép thành một dải câu chuyện theo ý thích  sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân vật trong tranh.

Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể chuyện sáng tạo như sau:

* Bước 1: Hát bài “ Ta đi vào rừng xanh”.Hỏi trẻ trong bài hát có những con vật gì?

*Bước 2: Nghe cô kể mẫu chuyện sáng tạo của cô, cô sử dụng tranh. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật,nội dung câu chuyện của cô, đặt tên cho câu chuyện).

*Bước 3: Cho trẻ về nhóm  chọn đồ dùng trực quan mà trẻ yêu thích( các con vật),làm sách và khi mở sách ra là một cuốn truyện tranh. Cô gợi mở ý tưởng cho trẻ bằng cách chọn những con vật, hình ảnh nào thì phải biết liên kết lại tạo nên một câu chuyện sáng tạo theo ý thích.

*Bước 4: Trẻ kể chuyện sáng tạo theo nhóm, cá nhân. Cô giáo phải chấp nhận ý tưởng của trẻ , tuyệt đối không nhận xét đúng sai, chỉ gợi ý những câu hỏi mở nhằm kích thích sự phát triển ngôn ngữ và thể hiện ý tưởng của mình. Cho trẻ đặt tên câu chuyện của mình.

Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với ngôn ngữ nói rõ ràng mạch lạc, có kỹ năng làm sách, mở sách đúng chiều, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng nói trước đám đông mạnh dạn ,tự tin.

 Ví dụ câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo.

Câu chuyện  “cá rô không vâng lời tác giả cháu Tấn Phát

Cháu đã chọn các nhân vật: Hai con cá, một con tôm, một con cua và dán vào bức tranh.

Trên một dòng sông nọ, có rất nhiều con vật, cá mẹ cá con, tôm, cua. Một hôm cá mẹ đi tìm thức ăn dặn cá con : con ở nhà không được đi chơi xa nhé. Nhưng khi cá mẹ đi rồi thì tôm đến rủ cá con đi chơi: cá con ơi đi chơi không? Cá con trả lời: mẹ mình không cho đi chơi xa. Và tôm cứ rủ miết rồi cá con cũng đi. Cá con bơi theo tôm đi rất xa, thấy trời tối tôm vội bỏ cá con và đi về và cá con không tìm được đường về và khóc.  Bác cua đến và hỏi: Vì sao cháu khóc. Cá con nói: Con không biết đường về nhà. Và bác cua đã dẫn cá con về nhà. Về đến nhà cá mẹ cảm ơn cua và cá con hối hận là đã không nghe lời mẹ. Cá con nói:  xin lỗi mẹ và hứa không đi chơi xa nữa.

Ở câu chuyện này cháu đã sử dụng các con vật và đã biết liên kết các nhân vật được với nhau và kể chuyện sáng tạo rất tốt. Ngôn ngữ của cháu được thể hiện một cách rất tự nhiên và phong phú và rất tư duy.

Biện pháp 3 :Lồng ghép các môn học khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo:

Đối với hoạt động kể chuyện sáng tạo cách vào bài gây hứng thú ,nghệ thuật kể chuyện hay với lời kể diễn cảm, hấp dẫn đã làm rung động người nghe, nhưng biết tích hợp các môn học khác thì còn hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện.

* Những bài đồng dao, ca dao, câu đố

Ví dụ:   Cho trẻ đọc thuộc các câu đố về con chim, mèo, lợn, cá, gà…hay một số bài đồng dao, ca dao “Chú Cuội ”, “Đi cầu đi quán”….

*Âm nhạc: là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát về các con vật  “Chú ếch con ”, “gà trống, mèo con và cún con” “Đố bạn ”, “”…giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.

*Trò chơi :là hình thức chuyển tiếp logic trong tiết dạy tạo tâm lý thoái mái cho trẻ mà các tiết dạy thường áp dụng. Cho trẻ chơi một số trò chơi nhẹ: tôm cua cá, ngửi hoa, trời nắng trời mưa, tạo dáng…

*Tạo hình :là môn học được lồng ghép nhiều giúp trẻ kể chuyện sáng tạo Như từ những bài vẽ của trẻ ,trẻ có thể kể thành những câu chuyện sáng tạo của mình dưới sự gợi ý ,hướng dẫn của cô giáo. Hay từ những viên đất nặn hoặc những tấm bìa màu trẻ nặn ,xé dán thành những nhân vật nghộ nghĩnh ,đáng yêu Từ đó cùng với cô giáo hướng dẫn và các bạn trẻ có thể kể thành những câu chuyện sáng tạo hấp dẫn .

Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn. Ở lứa tuổi này tâm lý của trẻ thường mau nhớ chóng quên. Vì vậy vào giờ đón trả trẻ tôi đưa trẻ vào góc văn học để hướng dẫn trẻ kiến thức mới và củng cố kiến thức cũ. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì mình có sẵn và học tập ở cô và bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn.

Việc tích hợp các môn học khác cô giáo phải linh hoạt, lựa chọn nội dung sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.

Biện pháp 4. Tạo ra các tình huống có vấn đề, kích thích trẻ suy nghĩ và tìm kiếm phương thức giải quyết.

Ở tuổi mầm non, trẻ có đặc điểm là chóng nhớ nhưng cũng rất mau quên nên chúng ta không thể yêu cầu trẻ “học suông”, học “lý thuyết” và nhớ những điều “sách vở” được. Nhất là những kiến thức về các hoạt động  kể chuyện sáng tạo cho trẻ thì càng cần thiết phải được biến thành kỹ năng để giúp trẻ nhận biết và giải quyết những vấn đề một cách triệt để . Trẻ cần tìm hiểu, ghi nhớ, học hỏi thông qua chính quá trình tự mình trải nghiệm .Tập trung sự quan tâm, chú ý, hứng thú của trẻ và đặt ra các vấn đề mà trẻ chưa giải quyết được bằng cách lần lượt đưa ra một số câu hỏi cho trẻ liên hệ kinh nghiệm bản thân, trao đổi, thể hiện, sau đó nêu vấn đề về những điều mà tất cả đều muốn biết để gây tò mò, kích thích nhu cầu muốn tìm hiểu ở trẻ, yêu cầu trẻ phải có kỹ năng phát hiện và giải quyết. Để làm được điều đó người giáo viên cần phải chú ý tận dụng các tình huống nảy sinh trong sinh hoạt hàng ngày để đưa vào giáo dục trẻ. Đó cũng chính là phương thức để trẻ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người.  Nhưng nếu chỉ “trông chờ” vào các tình huống tự nảy sinh thì giáo viên sẽ luôn bị động, thêm vào đó khó triển khai hết được các nội dung muốn dạy trẻ vì vậy tôi cho rằng nên tạo thêm các tình huống để giáo dục trẻ. Với suy nghĩ đó, tôi luôn có ý thức tìm tòi sáng tạo hoặc sưu tầm và đưa ra các tình huống để áp dụng vào dạy trẻ. Vì thế, khi tổ chức cho trẻ kể chuyện sáng tạo  trước hết cần tạo ra nhiều tình huống để trẻ có cơ hội được trao đổi, thảo luận với nhau.

Giáo viên bày tỏ sự hứng thú đối với những ý kiến nhận xét, thừa nhận những phát hiện của trẻ, khen ngợi khi trẻ đưa câu hỏi hay hoặc ý tưởng sáng tạo.

Sử dụng hệ thống câu hỏi để tạo tình huống có vấn đề thì câu hỏi đó phải đem lại trẻ một sự thắc mắc, tò mò và muốn tìm hiểu đối tượng, câu hỏi phải kích thích tư duy của trẻ, từ một câu hỏi nhưng yêu cầu trẻ giải quyết nhiều nhiệm vụ.

Ví dụ: câu hỏi xác định sự việc? (con mèo đang ở đâu trong bếp)

Câu hỏi có/ không/ai /cái gì/ở đâu/ làm gì?(Ai cho em quả bóng bay)

Câu hỏi vì sao? Như thế nào?(Vì sao con chuột không bay được)

Câu hỏi trải nghiệm cho trẻ.(nếu cô cho con hộp bút màu con sẽ làm gì?

Giáo viên chấp nhận sự lộn xộn trong quá trình tìm hiểu ,trải nghiệm và sáng tạo ra các sản phẩm .Cho phép mắc lỗi ,không nên cho trẻ cảm thấy sợ khi thử trải nghiệm điều gì mới .Khi trẻ thất bại cần ,cần được động viên để thử lại và được khen gợi cho sự nỗ lực .

Thủ thuật: “ô cửa bí mật ”, “Hộp quà kỳ diệu”… sử dụng các thủ thuật nhằm tạo tình huống bí mật, kích thích tính tò mò muốn khám phá đối tượng.

Biện pháp 5: Thường xuyên rèn luyện kỹ năng kể chuyện sáng tạo theo  nhóm cho trẻ:

Việc tổ chức các hoạt động ở trường mầm non nói chung và tổ chức cho trẻ học hoạt động kể chuyện sáng tạo  nói riêng được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Do đó việc tổ chức cho trẻ thảo luận nhóm cũng phải được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm rèn luyện kỹ năng thảo luận nhóm để phục vụ tốt hơn cho hoạt động kể chuyện sáng tạo  và các tiết học khác.

Có nhiều hình thức tổ chức cho trẻ hoạt động thảo luận nhóm sau đây tôi xin đưa ra một số hình thức cơ bản thường tổ chức ở các trường mầm non như sau:

Hoạt động học của trẻ ở trường mầm non đó là các tiết học, với những đặc trưng của tiết học giáo viên có thể sử dụng các bước của quy trình thảo luận nhóm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi học  áp dụng vào các môn học khác để giúp trẻ hình thành những kỹ năng cơ bản nhất của hoạt động kể chuyện sáng tạo .

Tăng cường tổ chức hoạt động nhóm :Tạo cho trẻ việc làm theo cặp hoặc nhóm lớn ,nhóm nhỏ ,trẻ có nhiều cơ hội học hỏi lẫn nhau ,đàm phán với bạn ,học cách lựa chọn giải quyết vấn đề cùng nhau ,hoạt động nhóm sẽ cho giáo viên quan sát trẻ ở các môi trường khác nhau để đảm bảo trẻ có thể thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập .

             VD:  Tôi cho trẻ sử dụng bộ đồ chơi sáng tạo là “Hộp quà kì diệu” tôi cho đại diện của nhóm lên bấm đèn chọn bức tranh và nhóm đó phải thảo luận kể câu chuyện tương ứng với bức tranh.

Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mầm non nên nó có ý nghĩa lớn đối với hoạt động kể chuyện sáng tạo . Khi tổ chức cho trẻ chơi giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ để tổ chức cho trẻ chơi dưới hình thức thi đua, chơi cùng nhau, chơi cạnh nhau, nhóm này giao lưu liên kết với các nhóm khác…cho trẻ cùng nhau thảo luận để tìm ra nội dung chơi, chủ đề chơi, luật chơi, cách chơi phù hợp với nhiệm vụ.

Hoạt động ngoài trời: Khi tổ chức cho trẻ quan sát giáo viên sử dụng hình thức quan sát theo nhóm, tôi tổ chức cho trẻ quan sát cùng một đề tài, nhưng mỗi nhóm quan sát một bộ phận khác nhau sau đó giáo viên cho trẻ trình bày những gì mình vừa được quan sát, được nhìn . Như thế trẻ không chỉ được nghe các bạn nói mà trẻ còn được nhìn thấy sự vật thật từ đó sẽ hình thành biểu tượng chính xác hơn về sự vật hiện tượng và có ý tưởng cho câu chuyện.

 Biện pháp 6: Gợi ý một số hình thức tổ chức kể truyện sáng tạo :

Giáo viên cần lựa chọn hình thức tổ chức kể chuyện sáng tạo phù hợp với khả năng của trẻ ,tránh quá sức với trẻ có như vậy trẻ mới hứng thú tham gia hoạt động và đạt kết quả tốt nhất .

* Sau đây là gợi ý một số hình thức tổ chức kể chuyện sáng tạo cho trẻ :

1.Kể chuyện từ sách, tranh trẻ làm:

Trẻ tự làm sách bằng nguyên vật liệu sẵn có, tranh ảnh, họa báo…hoặc tự vẽ tranh. Cô giáo có thể cho trẻ sưu tầm tranh từ sách, báo ,truyện đọc, tranh dân gian …hình ảnh và nội dung rõ ràng có 3-5 nhân vật với các hành động, tình huống gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ .

Tùy theo từng lứa tuổi mà GV hướng dẫn cho phù hợp :Thu hút ,lôi cuốn trẻ hứng thú ,chú ý vào các bức tranh, khơi gợi những hiểu biết,vốn từ, kích thích trí tò mò ,tưởng tượng ,suy đoán của trẻ có liên quan đến bức tranh gợi hỏi trẻ mô tả: Tranh có nhân vật nào? Bạn Thỏ đã đi đâu? Thỏ đã làm gì khi bị chó sói đuổi theo?

Tùy nội dung và khả năng của trẻ cô có thể dạy trẻ các từ nối câu và mở rộng thành phần câu của trẻ

Sau đó giáo viên nhận xét đánh giá : Giáo viên cho trẻ nêu cảm nhận của mình về câu chuyện của bạn. “Con thích câu chuyện của bạn nào? Vì sao?” Sau khi cho trẻ kể chuyện, giáo viên để bức tranh ở góc văn học để nhiều trẻ có cơ hội được kể .Tổ chức hoạt động góc, hoạt động chiều .

Cá nhân trẻ hoặc nhóm tự xây dựng nội dung câu chuyện qua hoạt động có  trong quyển sách trẻ tự làm từ các hoạt động trước.

Trong hoạt động này nội dung câu chuyện của trẻ có thể không logic, có thể không có ý nghĩa, có thể không phù hợp với hình ảnh trong sách. Giáo viên phải chấp nhận ý tưởng của trẻ, tuyệt đối không nhận xét đúng sai, chỉ gợi ý những câu hỏi mở nhằm kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ và thể hiện ý tưởng của mình.

Đặc biệt với hình thức này trẻ biết tự sáng tạo làm được các loại sách với những nội dung sáng tạo khác nhau và kỹ năng của trẻ biết cách lật từng trang sách rất thành thạo…….

           2.Kể chuyện từ tranh do giáo viên chuẩn bị:

Kể theo trình tự cô sắp xếp, mỗi nhóm(hoặc cá nhân) sẽ có ý tưởng để xây dựng nội dung câu chuyện khác nhau.

Kể theo trình tự trẻ sắp xếp, mỗi nhóm sẽ có ý tưởng để xây dựng nội dung câu chuyện khác nhau.

Giáo viên không chuẩn bị trước nội dung câu chuyện để áp đặt trẻ, không rèn trẻ trước khi tổ chức hoạt động, luôn tôn trọng ý tưởng của trẻ.

3.Trẻ tự tưởng tượng một câu chuyện nào đó (Đây là kể chuyện sáng tạo khó nhất đối với trẻ)

Cá nhân trẻ hoặc nhóm tự đặt ra nội dung câu chuyện từ trí sáng tạo của trẻ.

Nội dung chuyện trẻ tưởng tượng có thể không logic, không có ý nghĩa, cũng có thể không có nội dung với người lớn nhưng lại có ý nghĩa với trẻ.

Giáo viên cần tạo cho trẻ hứng thú vào hoạt động kể chuyện. Cùng trẻ lựa chọn chủ đề, giúp trẻ đưa ra tên truyện, cùng bàn  các nhân vật, tình huống xảy ra

+ Giúp trẻ xây dựng ý tưởng, nội dung câu chuyện

+ Xây dựng bố cục, dàn ý, diễn biến câu chuyện

+ Giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình vào câu chuyện.

+ Giúp trẻ khái quát lại nội dung câu chuyện.

+ Theo con mở đầu câu chuyện sẽ như thế nào? Diễn biến câu chuyện sẽ ra sao? Kết thúc câu chuyện như thế nào?

Giáo viên phải chấp nhận ý tưởng của trẻ, tuyệt đối không nhận xét đúng

sai, chỉ gợi ý những câu hỏi mở nhằm kích thích trẻ phát triển ngôn ngữ và thể hiện ý tưởng của mình rõ hơn.

4.Trẻ kể chuyện từ những sự việc, hiện tượng xảy ra xung quanh trẻ.

Trẻ kể những sự việc, hiện tượng xảy ra xung quanh trẻ: câu chuyện có thể không có mở đầu, không có kết thúc.

Giáo viên chịu khó lắng nghe và đặt những câu hỏi gợi mở hoặc đối lập trong quá trình trẻ kể lại để tạo hứng thú cho trẻ.

+ Nhớ lại câu chuyện theo một trình tự

+ Dạy trẻ mô tả bằng lời

+ Giúp trẻ thể hiện thái độ, tình cảm của mình vào câu chuyện

5.Trẻ kể lại câu chuyện nào đó đã được nghe từ bạn bè, người thân trong gia đình , người xung quanh trẻ.

Nội dung câu chuyện trẻ kể lại có thể lộn xộn, không theo trình tự như đã được nghe.

GV lắng nghe và gợi ý, giúp trẻ sắp xếp nội dung câu chuyện logic, hợp lý.

6.Trẻ kể tiếp nội dung câu chuyện có sẵn:

Giáo viên kể cho trẻ nghe một đoạn truyện hoặc sử dụng tình huống chơi ,tình huống mới lạ, hấp dẫn trẻ đến chỗ thắt nút câu chuyện cần được giải quyết dừng lại và hỏi trẻ :Câu chuyện tiếp theo sẽ như thế nào ?Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.Cuối cùng sẽ như thế nào?…(tình huống đặt ra có nhiều cách giải quyết khác nhau ).Cô cho trẻ một khoảng thời gian để trẻ suy nghĩ ,cô trò chuyện đàm thoại, đưa ra câu hỏi gợi mở hỏi trẻ kích thích ,trẻ sáng tạo .Cô giúp trẻ suy nghĩ về bố cục câu chuyện ,giúp trẻ hình dung ra cách kể nối tiếp đoạn kể trước một cách logic, kết thúc truyện theo nhiều cách khác nhau Nhận xét đánh giá về : Hành động ,hành vi của nhân vật ,sự hợp lý của nội dung câu chuyện ,các câu nói đúng nói hay của trẻ …Khuyến kích trẻ đưa ra nhận xét về câu chuyện mà bạn vừa kể .

7.Kể chuyện theo đồ chơi “đồ vật, cây cối ” ?

Giáo viên lựa chọn một số đồ chơi ,đồ vật đẹp gần gũi ,có liên quan đến nhau ,hấp dẫn ,lôi cuốn trẻ .Cô giáo trò chuyện đàm thoại gợi hỏi trẻ quan sát đặc điểm nổi bật của đồ chơi, ý tưởng kể, nội dung câu chuyện kể ,mối quan hệ

giữa các đồ vật, cây cối .Tổ chức lần đầu trẻ chưa quen cô có thể kể chuyện mẫu cho trẻ nghe một câu chuyện khác, cho trẻ kể truyện với đồ chơi .Nếu trẻ  gặp khó khăn khi đặt lời kể ,cô giáo  gợi hỏi trẻ ,cho trẻ  đặt tên câu chuyện của mình .

Ví dụ: Chú thỏ con đang  đi thì nhìn thấy gì ?Chuyện gì sẽ xảy ra ? Cuối cùng như thế nào ? Tên câu chuyện là gì ?

*Biện pháp 7: Phối hợp với phụ huynh, tuyên truyền, giới thiệu với

 phụ huynh về hoạt động kể chuyện sáng tạo.

Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quết định trong việc tạo nguồn nhiên liệu để chúng tôi làm đồ dùng của các góc, nhất là góc làm quen với văn học. Ngay đầu năm học tôi đã tổ chức họp phụ huynh, tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường để trẻ đư­ợc làm quen với tr­ường lớp, với các bạn, giao l­ưu với các bạn. Ngoài ra tôi còn trao đổi với phụ huynh về vấn đề chăm sóc và giáo dục trẻ ở trư­ờng cũng như­ ở nhà để cô giáo và phụ huynh cùng kết hợp dạy trẻ. Đặc biệt tôi đề cập đến tầm quan trọng của bộ môn “làm quen văn học đặc biệt là hoạt động kể chuyện sáng tạo” vì đây là môn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một các mạch lạc, giúp trẻ phát triển khả năng cảm thụ văn học, qua các tác phẩm trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh

Vận  động phụ huynh hỗ trợ vật liệu ,nguyên liệu như : giấy, sách, những lọ nhựa, vải vụn để làm rối kể chuyện cho trẻ.

Tuyên truyền với phụ huynh tích cực trò chuyện với trẻ, cho trẻ nghe qua băng đĩa,hoặc kể cho trẻ nghe những câu chuyện cổ tích, thần thoại, những bài đồng dao,…khi trẻ được nghe sẽ phát triền và làm giàu vốn từ cho mình nhằm giúp có nhiều ý tưởng cho kể chuyện sáng tạo.

Đối với những trẻ tiếp thu chậm tôi trực tiếp trao đổi với phụ huynh để cùng đư­a ra những biện pháp để trẻ tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.

4.3 Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:

Sau khi áp dụng các biện pháp trên trẻ đã đạt được kết  quả như sau:

TSTT Nội dung khảo sát  

 Trẻ đạt

 

Tỉ lệ

 Trẻ  chưa    đạt  

     Tỉ lệ

 

1

Khả năng ghi nhớ, Chú ý có chủ định 31/33 94% 2 6%
 

2

Tính tự tin trong giao tiếp, thuyết trình trước đám đông 30/33 91% 3 9%
 

3

Kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm 32/33 97% 1 3%
 

4

Trí tưởng tượng ,khả năng phán đoán tình huống 29/33 88% 5 12%
 

5

Trẻ hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo . 33/33

 

 

100% 0 0%
 

6

Biết kể chuyện sáng tạo 32/33

 

 

97% 1 3%
 

7

Ngôn ngữ rõ ràng

mạch lạc.

31/33 94% 2 6%

 

* Đối với trẻ:

Bằng các trò chơi, các thủ thuật gây hứng thú kết hợp với các đồ dùng trực quan phù hợp với nội dung bài dạy, các hoạt động cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua kể chuyện sáng tạo đã kích thích trẻ hứng thú, sôi nổi học tập. Trẻ được trực tiếp tranh luận, đưa ra ý kiến nhận xét của riêng mình cho các bạn trong nhóm cùng nghe. Trẻ được nhận biết ,trải nghiệm ,luyện tập các kỹ năng thông qua các hoạt động ở mọi lúc mọi nơi trong chế độ sinh hoạt hàng  ngày như : Hoạt động học ,hoạt động vui chơi,hoạt động giao tiếp trong sinh hoạt hàng  ngày ,bằng nhiều hình thức khác nhau :Nghe ,nói “viết ,vẽ ,mô tả  ,mô phỏng ,làm mô hình  ,làm sách ,bộc lộ cảm xúc thông qua nét mặt ,cử chỉ ,điệu bộ.

Trẻ được thỏa sức sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ như là phương tiện để bộc lộ những hiểu biết của bản thân về thế giới xung quanh, tái hiện lại các mối quan hệ trong xã hội thông qua các hoạt động :trao đổi chia sẻ vẽ … Đầu năm học một số trẻ lớp tôi còn rất nhút nhát, không dám thể hiện trước cô và các bạn  như cháu Quỳnh Như, Bảo Hoàng, Thanh Ngân… một số trẻ khác hay nói ngọng, nói còn ấp úng như cháu: Thành Đạt, Đức Huy, Tuấn Khang.. Nhưng đến nay các cháu đó rất mạnh dạn, không còn trẻ nói ngọng nữa, trẻ nói rõ ràng mạch lạc. Trẻ hứng thú ,tích cực trao đổi sử dụng ngôn ngữ để thể hiện tư duy ,mô phỏng hành động của nhân vật … Sau mỗi hoạt động tôi thường nghe trẻ nói chuyện với nhau “Hôm nay nhóm mình chơi vui nhỉ, có trẻ khác lại nói hôm nay chúng mình được học thích nhỉ,hay ngày mai nhóm mình sẽ cố gắng chơi giỏi hơn, nhanh hơn để được cô và các bạn khen ngày nào mình cũng đòi bố mẹ cho đi học để được chơi với cô và các bạn”.

* Đối với giáo viên:

Sau khi áp dụng các biện pháp trên tôi thấy trẻ lớp tôi đã có kiến thức về việc sử dụng các hình thức dạy học để áp dụng vào dạy trẻ. Điều đó càng giúp tôi yên tâm phấn khởi và tích cực hơn nữa trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục trong ngày cho trẻ. Các cô giáo trong trường  tôi đều rất tích cực tìm tòi và đưa ra nhiều hình thức dạy học phong phú không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, nâng cao vốn hiểu biết về kiến thức văn học, bổ sung làm giàu vốn kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân. Thường xuyên chuẩn bị môi trường đầy đủ, đa dạng, phong phú cho trẻ hoạt động. Có hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, câu hỏi gợi mở để kích thích trẻ tư duy. Cô giáo luôn gần gũi hỗ trợ động viên trẻ, cho trẻ tham gia làm việc cùng cô để trẻ mạnh dạn tự tin  để giúp trẻ tiếp tục phát triển ngôn ngữ mạch lạc một cách hiệu quả nhất, đặc biệt tiết học không còn khô cứng nữa mà là một giờ chơi mà học, học mà chơi.

          Ngoài ra người giáo viên dạy hoạt động kể chuyện sáng tạo cần lưu ý

Giáo viên phải chấp nhận tên câu chuyện, nội dung câu chuyện do trẻ tưởng tượng, sáng tạo xây dựng( điều này đặc biệt có ý nghĩa với trẻ vì trẻ cảm nhận mình tôn trọng)

Tuyệt đối không được cắt ngang khi trẻ đang kể chuyện.

Chấp nhận ý tưởng của trẻ, tuyệt đối không nhận xét đúng sai, khi cần nên đặt câu hỏi gợi mở hoặc đối lập trong quá trình trẻ kể để tạo hứng thú cho trẻ, nhằm kích thích khả năng tưởng tượng của trẻ để phát triển ngôn ngữ và thể hiện rõ hơn ý tưởng của mình.

Giáo viên tham gia hoạt động cùng trẻ, nhập vai tham gia kể chuyện cùng trẻ.

  1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử[1]:

Sáng kiến có thể áp dụng trong các trường Mầm non, Mẫu giáo trong toàn huyện, đáp ứng việc thực hiện chuyên đề Trường Mầm non lấy trẻ làm trung tâm và chuyên đề Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ Mẫu giáo thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo do cấp học triển khai.

  1. Đánh giá lợi ích thu được của trường Mầm non Đại Hiệp:

Lợi ích thu được của trường mầm non Đại Hiệp qua thực hiện sáng kiến này đã nhân rộng ra 14/15 lớp. Chất lượng giáo dục trẻ ở các độ tuổi được nâng lên rõ rệt. Đặc biệt là lĩnh vực phát triển ngôn ngữ.

  1. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu:
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ
1 Phạm Thị Thanh Thủy 1988 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN này tại lớp Lớn 4

 

2 Võ Kim Hằng 1989 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN này tại lớp lớn 5

 

3 Nguyễn Vũ Trà 1988 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN tại lớp Nhỡ 1

 

 

 

 

Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.

 

 Đại Hiệp, ngày 15 tháng 03 năm 2020

                                                                          Người nộp đơn     

                        

                        

                                                               

 

Hà Thị Thu

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC:

Hình ảnh trẻ tham gia kể chuyện theo tranh trẻ làm.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hình ảnh trang trí góc văn học

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mẫu 4

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN

(Ban hành theo QĐ số  32 /2015/QĐ-UBND ngày  11 /11/2015 của UBND tỉnh)

 

Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”

Tác giả sáng kiến: Hà Thị Thu

Đơn vị công tác (của tác giả sáng kiến) : Trường MN Đại Hiệp

Họp vào ngày:    tháng    năm 2020

Họ và tên chuyên gia nhận xét: Nguyễn Thị Thương

Học vị: ĐHSP Chuyên ngành:  GDMN

Đơn vị công tác: Trường MN Đại Hiệp

Địa chỉ: Thôn Tích phú xã Đại Hiệp huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam

Số điện thoại cơ quan: 0235 3 762 225

Di động: 0905956749

Chức trách trong Tổ thẩm định sáng kiến: Chủ tịch hội đồng khoa học

NỘI DUNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

STT Tiêu chuẩn Điểm tối đa Đánh giá của tổ thẩm định
1 Sáng kiến có tính mới và sáng tạo (điểm tối đa: 30 điểm) (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới và cho điểm tương ứng)
1.1 Không trùng về nội dung, giải pháp thực hiện sáng kiến đã được công nhận trước đây, hoàn toàn mới; 30  

 

1.2 Sáng kiến, giải pháp có cải tiến so với trước đây với mức độ khá; 20  

 

1.3 Sáng kiến, giải pháp có cải tiến so với trước đây với mức độ trung bình; 10  
1.4 Không có yếu tố mới hoặc sao chép từ các giải pháp đã có trước đây. 0  
Nhận xét:

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

2 Sáng kiến có tính khả thi (điểm tối đa: 30 điểm)
2.1 Thực hiện được và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tác giả sáng kiến; 10  
2.2 Triển khai và áp dụng đạt hiệu quả (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới)    
a) Có khả năng áp dụng trong toàn tỉnh 20  
b) Có khả năng áp dụng trong nhiều ngành, lĩnh vực công tác và triển khai nhiều địa phương, đơn vị trong tỉnh. 15  
c) Có khả năng áp dụng trong một số ngành có cùng điều kiện. 10  
d) Có khả năng áp dụng trong ngành, lĩnh vực công tác. 5  
Nhận xét:

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

3 Sáng kiến có tính hiệu quả (điểm tối đa: 40 điểm)
3.1 Sáng kiến phải mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị nhiều hơn so với khi chưa phát minh sáng kiến; 10  
3.2 Hiệu quả mang lại khi triển khai và áp dụng  (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới)    
a) Có hiệu quả trong phạm vi toàn tỉnh 30  
b) Có hiệu quả trong phạm vi nhiều ngành, nhiều địa phương, đơn vị 20  
c) Có hiệu quả trong phạm vi một số ngành có cùng điều kiện 15  
d) Có hiệu quả trong phạm vi ngành, lĩnh vực công tác. 10  
Nhận xét:

…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

Tổng cộng  

 

THÀNH VIÊN TỔ THẨM ĐỊNH              TM.HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

                                                                       CHỦ TỊCH

                 

 

Nguyễn Thị Thương                                 Nguyễn Thị Thương

 

 

 

Mẫu 4

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN

(Ban hành theo QĐ số  32 /2015/QĐ-UBND ngày  11 /11/2015 của UBND tỉnh)

 

Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo”

Tác giả sáng kiến: Hà Thị Thu

Đơn vị công tác (của tác giả sáng kiến) : Trường MN Đại Hiệp

Họp vào ngày:    tháng   năm 2020

Họ và tên chuyên gia nhận xét: Võ Thị Diễm Châu

Học vị: ĐHSP Chuyên ngành:  GDMN

Đơn vị công tác: Trường MN Đại Hiệp

Địa chỉ: Thôn Tích phú xã Đại Hiệp huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam

Số điện thoại cơ quan: 0235 3 762 225

Di động: 0905 604973

Chức trách trong Tổ thẩm định sáng kiến: Thành viên hội đồng khoa học

 

NỘI DUNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

STT Tiêu chuẩn Điểm tối đa Đánh giá của tổ thẩm định
1 Sáng kiến có tính mới và sáng tạo (điểm tối đa: 30 điểm) (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới và cho điểm tương ứng)
1.1 Không trùng về nội dung, giải pháp thực hiện sáng kiến đã được công nhận trước đây, hoàn toàn mới; 30  

 

1.2 Sáng kiến, giải pháp có cải tiến so với trước đây với mức độ khá; 20  

 

1.3 Sáng kiến, giải pháp có cải tiến so với trước đây với mức độ trung bình; 10  
1.4 Không có yếu tố mới hoặc sao chép từ các giải pháp đã có trước đây. 0  
Nhận xét:

.Sáng kiến đã được áp dụng trước đây, nhưng giải pháp có cải tiến và sáng tạo so với trước đây ở mức độ khá, được đồng nghiệp và các bạn cùng khối nhỡ áp dụng hiệu quả.

2 Sáng kiến có tính khả thi (điểm tối đa: 30 điểm)
2.1 Thực hiện được và phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tác giả sáng kiến; 10  
2.2 Triển khai và áp dụng đạt hiệu quả (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới)    
a) Có khả năng áp dụng trong toàn tỉnh 20  
b) Có khả năng áp dụng trong nhiều ngành, lĩnh vực công tác và triển khai nhiều địa phương, đơn vị trong tỉnh. 15  
c) Có khả năng áp dụng trong một số ngành có cùng điều kiện. 10  
d) Có khả năng áp dụng trong ngành, lĩnh vực công tác. 5  
Nhận xét:

Sáng kiến có tính khả thi, đã được thực hiện tại lớp, tại trường đã nhân rộng ra 4 lớp Bé, thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tác giả, có khả năng áp dụng trong ngành GDMN, trong lĩnh vực công tác.

3 Sáng kiến có tính hiệu quả (điểm tối đa: 40 điểm)
3.1 Sáng kiến phải mang lại lợi ích thiết thực cho cơ quan, đơn vị nhiều hơn so với khi chưa phát minh sáng kiến; 10  

 

3.2 Hiệu quả mang lại khi triển khai và áp dụng  (chỉ chọn 01 (một) trong 04 (bốn) nội dung bên dưới)    
a) Có hiệu quả trong phạm vi toàn tỉnh 30  
b) Có hiệu quả trong phạm vi nhiều ngành, nhiều địa phương, đơn vị 20  
c) Có hiệu quả trong phạm vi một số ngành có cùng điều kiện 15  
d) Có hiệu quả trong phạm vi ngành, lĩnh vực công tác. 10  
Nhận xét:

Sáng kiến có tính hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho trẻ tại lớp, tại trường nhiều hơn so với khi chưa phát minh.

Sáng kiến có hiệu quả trong phạm vi ngành GDMN, trong lĩnh vực công tác.

 

Tổng cộng  

THÀNH VIÊN TỔ THẨM ĐỊNH              TM.HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

                                                                       CHỦ TỊCH

                 

  

 

Nguyễn Thị Ngọc Loan                                  Nguyễn Thị Thương

                                                                    

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

[1] Đánh giá lợi ích thu được theo hướng dẫn quy định tại điểm g khoản 1 Điều 5 của  Thông tư số 18/2013/ BKHCN hướng dẫn thi hành một số quy định của Điều lệ Sáng kiến.

Cảm nhận của Phụ huynh

Chị Nguyễn Thị Hoài Thu – Phụ huynh bé: Nguyễn Huỳnh Linh Đan – Lớp lớn

Con tôi rất nhút nhát, do công việc bận rộn gia đình cũng không có thời gian để tạo điều kiện cho bé thường xuyên tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên bé ngại giao tiếp hơn. Do đó khoảng thời gian đầu cho bé đi học là quãng thời gian khó khăn cho cả bé và gia đình. Tôi đã từng khóc khi thấy bé đứng thút thít do không thuộc những động tác thể dục buổi sáng… Thời gian trôi thật mau, giờ bé đã nên người và tự tin hơn rất nhiều, bé lại có thể phát huy được năng khiếu múa hát. Tất cả là nhờ sự yêu thương, gần gũi của các cô đã làm cho bé tìm được niềm vui khi đến lớp.