SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3-4 TUỔI CÓ CÁC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ BẢN THÂN- Giáo viên: Phạm Thị Tố Trinh
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3-4 TUỔI CÓ CÁC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ BẢN THÂN
1. Mô tả bản chất của sáng kiến7:
Như chúng ta củng biết, tính tự lập là những suy nghĩ, hoạt động do chính bản thân thực hiện, không phụ thuộc, không chờ giúp đỡ. Đó là những cách nghĩ độc lập luôn cố gắng để đạt mục đích đề ra. Tự lập không phân biệt lớn nhỏ, không phải chờ đến tuổi trưởng thành mới cần tự lập. Đặc biệt hơn tự lập không phải ai sinh ra củng đã có mà nó có được thông qua rèn luyện. Tính tự lập bao gồm rất nhiều lĩnh vực, tự lập trong ăn uống, giao tiếp…Và hôm nay trong bài sáng kiến kinh nghiệm này chúng tôi chỉ đề cập đến tính tự lập trong vệ sinh cá nhân của trẻ mầm non.
Trẻ em nếu được quan tâm chăm sóc nuôi dưỡng sẽ ít ốm đau bệnh tật và phát triển tốt. Công tác chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ trong độ tuổi mầm non là việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ có nề nếp thói quen vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lí thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Bao gồm vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh có hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật. Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay lúc bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy trình…muốn tạo được thói quen cho trẻ thì giáo viên và nhà trường là chưa đủ cần có sự đồng hành xuyên suốt và bền bỉ của phụ huynh thì mới đạt được kết quả tốt.
Thực tế vệ sinh cá nhân của trẻ hiện nay ở trong các gia đình còn chưa được quan tâm nhiều, tự bản thân trẻ còn phụ thuộc vào ông ,bà, bố mẹ, anh chị em, ..rất nhiều nên trẻ chưa có thói quen , chưa có ý thức, tự giác làm vệ sinh cá nhân cho tốt. Một trong những cách phòng tránh dịch bệnh đơn giản và ít tốn kém nhất là tạo thói quen vệ sinh cá nhân tốt cho trẻ ngay từ lứa tuổi trẻ mẫu giáo, những côngviệc vệ sinh hàng ngày tưởng như rất đơn giản như đánh răng, rửa mặt, rửatay….nhưng lại rất cần thiết trong đời sống con người. Làm tốt việc vệ sinh cá nhân không chỉ giúp tạo ấn tượng tốt với những người xung quanh mà còn giúp con người chúng ta duy trì một sức khỏe tốt. Vệ sinh đúng cách còn có tác dụng phòng bệnh rất tốt. Hiện nay rất nhiều căn bệnh truyền nhiễm vẫn chưa có vắc-xin phòng bệnh, do vậy việc vệ sinh cá nhân được đánh giá có tác dụng tương đương với vắc-xin phòng bệnh là việc làm cần thiết của tất cả mọi người. Do tình hình dich bệnh kéo dài, trẻ phải ở nhà trong thời gian dài, chúng tôi không thể trực tiếp hướng dẫn và rèn luyện trẻ, nên việc phối hợp với phụ huynh là việc làm thiết thực nhất và hiệu quả nhất lúc này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “ Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân”.
1.1 .Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
Giải pháp 1: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.
Giải pháp 2: Tuyên truyền với phụ huynh sử dụng phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ
Giải pháp 3: Dạy trẻ kỹ năng tự phục thông qua các hoạt động hàng ngày.
1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
1. Thuận lợi:
– BGH luôn tạo điều kiện cho giáo viên được học tập nâng cao chuyên môn, mua sắm cũng như bổ sung cơ sở vật chất, đồ dùng , đồ chơi để đảm bảo chất lượng trong chăm sóc và giáo dục trẻ.
– Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn .
– Giáo viên được tham khảo nhiều tài liệu về chương trình giáo dục mầm non theo hướng đổi mới.
– Giáo viên tự học hỏi, trau dồi kiến thức trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
– Được sự quan tâm hỗ trợ của phụ huynh học sinh và chị em đồng nghiệp.
2. Khó khăn:
– Khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều. Có một số trẻ còn chưa biết nói, hoặc nói chưa thạo nên sẽ gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn của mình cho cô giáo.Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe những không hiểu được các yêu cầu của cô,thích tự làm theo ý mình nên sẽ gây khó khăn cho tôi trong việc rèn các trẻ đó.
– Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ.
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại
Muốn trẻ em hình thành được những thói quen tốt trong vệ sinh cá nhân thì nhà trường và phụ huynh phải thống nhất những yêu cầu giáo dục trẻ. Giáo viên thông báo với phụ huynh những biện pháp giáo dục trẻ, yêu cầu phụ huynh theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực tiễn ở nhà để cùng phối hợp giáo dục trẻ.
Giải pháp 1: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày.
a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ.
– Thói quen vệ sinh cần rèn luyện.
– Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các
cháu những thói quen vệ sinh sau:
– Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng.
– Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạt
nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch..
– Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng
sạch sẽ.
– Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân.
– Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn.
– Biết dùng tay – khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi…
b. Giáo viên cần nắm được các trình tự sau đây để hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ
– Cô giáo hướng dẫn cho trẻ được nội dung yêu cầu thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân.
Ví dụ: Để trẻ thực hiện được các thao tác rửa tay, cô giáo cần làm mẫu từng bước rửa tay cho trẻ quan sát và thực hiện theo.
– Các cháu mẫu giáo nhỡ tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được
những kiến thức thông thường vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dể hiểu.
Ví dụ: Cô giáo cần giúp trẻ hiểu vì sao mỗi khi học tập xong, sau khi đi đại
tiện trẻ cần phải rửa tay sạch sẽ? Ngoài phương pháp dùng lời, cô có thể kèm với lời giải thích bằng tranh, phim ảnh…
– Chuẩn bị lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể làm tốt các công
việc tự phục vụ bản thân vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần
chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích. Cô có thể tập trước cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo.
Ví dụ: Thực hiện đúng lịch hoạt động vệ sinh hàng ngày của trẻ để hình thành nền nếp kỹ năng tự phục vụ vệ sinh cá nhân cho trẻ.
c) Giáo viên tổ chức một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động vệ sinh cá nhân trẻ:
– Vệ sinh môi trường nề nếp của lớp:
Các cháu ở tường mầm non thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ.
Ví dụ: Lớp học sạch đẹp cháu sẽ không vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ
chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định.Nếu hàng ngày cô thực hiện nghiêm túc thời gian biểu cháu sẽ thực hiện đúng giờ nào việc đó. Vì những việc làm tốt được lặp đi lặp lại nhiều lần thì sẽ thành thói quen tốt cho trẻ.
– Sự gương mẫu của cô và những người xung quanh: Đặc điểm của trẻ là hay
bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai,
cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân
thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo.
Ví dụ: Trang trí, sắp xếp lớp học gọn gàng, ngăn nắp; rửa tay sau mỗi hoạt động dạy học; giữ vệ sinh môi trường trường lớp sạch đẹp…
Giải pháp 2: Tuyên truyền với phụ huynh sử dụng phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ
Đây là nhóm phương pháp mà giáo viên đã sử dụng khi tổ chức hoạt động giáo dục tại lớp và cũng rất hiệu quả cho bố mẹ sử dụng tại nhà. Phương pháp dùng cử chỉ điệu bộ kết hợp với lời nói thích hợp để khuyến khích và ủng hộ trẻ hoạt động nhằm khơi gợi niềm vui, tạo niềm tin, cổ vũ sự cố gắng của trẻ trong quá trình hoạt động. Bố mẹ hãy dành nhiều lời khen cho con nhiều hơn, khuyến khích trẻ nhiều hơn và không yêu cầu cao đối với con trẻ.
Để giúp trẻ hình thành một thói quen là một công việc vô cùng khó khăn và cần tính kiên trì và khoa học. Trẻ em chỉ thực sự hứng thú với vệ sinh cá nhân nếu việc này khiến trẻ vui vẻ và hạnh phúc. Đừng biến việc vệ sinh trở thành một chủ đề khủng khiếp đối với trẻ em. Làm cho trẻ vui bằng những cách khác nhau, chẳng hạn ba mẹ cùng làm với trẻ, cùng đánh răng với trẻ, tạo bọt bằng xà phòng khi rửa tay hoặc tắm, mua kem đánh răng có mùi hương trẻ thích, bàn chải có hình nhân vật hoạt hình ngộ nghĩnh…
Ba mẹ cần phải kiên nhẫn khi dạy con. Ngoài việc rất khuyến khích cho con trẻ tự lập và tạo môi trường cho con rèn luyện kỹ năng sống, thì cha mẹ cũng chính là những người hay mất kiên nhẫn khi chờ đợi con thực hiện. Mặc dù khá khó khăn và mất thời gian nhưng khi con trẻ cố gắng làm một điều gì đó vì tính tò mò hoặc cũng có thể là bắt chước người khác thì cha mẹ nên cố gắng kiên nhẫn chờ đợi xem con đã làm đúng hay chưa, không nên vì sốt ruột mà làm hộ trẻ.
Ba mẹ cần đầu tư thời gian và thái độ cho con, lắng nghe lời nói và hành động của con cũng là phương pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non biết cách xử lý và giải quyết vấn đề theo hướng tích cực. Hãy làm trước cho trẻ thấy, khi trẻ không hiểu chúng sẽ tự hỏi, như thế giúp trẻ ghi nhớ tốt hơn. Việc giải thích quá cặn kẽ chỉ là thừa, bởi vì: Lời nói khiến trẻ phân tâm. Bé ghi nhớ hình ảnh và hành động tốt hơn lời nói. Do đó, trẻ có thể sẽ không hiểu những lời nói. Việc nói ít và làm nhiều sẽ hiệu quả hơn khi hướng dẫn con cái! Hành động khiến kích thích trí tò mò và học hỏi của trẻ!Mỗi trẻ đều muốn thể hiện khả năng của mình, muốn chứng tỏ mình vì vậy cha mẹ cần phân công nhiệm vụ cho trẻ phù hợp với năng lực của trẻ,các hành động này nên được khuyến khích lặp lại thường xuyên.
Trẻ con thường rất dễ bị xấu hổ, đặc biệt là khi mắc sai. Những đứa trẻ non nớt và rất dễ tổn thương.Vì vậy, ba mẹ nên hạn chế tối đa sự áp đặt và yêu cầu của bản thân đối với công việc trẻ làm. Đôi khi, dù vô tình nhưng những lời chê bai, những thái độ cau mày, nhăn mặt của ba mẹ khi con làm sai cũng đủ để khiến trẻ cảm thấy buồn rầu và chán nản. Thay vào đó, hãy khích lệ con bằng những lời động viên và ghi nhận thành quả chúng đạt được, đặc biệt khi các con làm tốt một việc gì, trẻ rất thích được người lớn tuyên dương, khen ngợi trước đám đông. Việc khen thưởng của ba mẹ đối với bé rất quan trọng. Chỉ là những câu nói nhẹ nhàng nhưng chứa đựng sự chân thành, tính khích lệ, (ví dụ cổ vũ trẻ như là: “Con làm đúng rồi đấy, Con làm rất tốt, lần sau con hãy làm tốt như vậy nhé!…”). Việc tạo động lực cho trẻ trong suốt quá trình làm việc không chỉ giúp trẻ hình thành những thói quen tốt, luôn biết cố gắng, nỗ lực.
Tùy vào năng lực của từng trẻ, nhanh hay chậm không quan trọng mà quan trọng là trẻ học được những gì. Nên mọi hoạt động cần cho trẻ làm thường xuyên liên tục từ đó trở thành kĩ năng của trẻ, đem đến cho trẻ sự tự lập, tự tin và luôn nghĩ rằng trẻ có thể làm được.
Giải pháp 3: Dạy trẻ kỹ năng tự phục thông qua các hoạt động hàng ngày.
a. Muốn thực hiện được những quy định thì phải có phương tiện thực hiện.
– Tham mưu nhà trường, phụ huynh học sinh tạo điều kiện vật chất tối thiểu
cần thiết để trẻ được thường xuyên thực hiện được những quy định về vệ sinh.
Ví dụ: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các
cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà,cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ.
– Trang bị, bổ sung đủ các trang thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ ở lớp.
Ví dụ: Mỗi cháu 1 khăn mặt, 1 bàn chải răng, 1 cốc uống nước riêng có kí hiệu tên trẻ; Khăn thêu tên, bìa hồ sơ để lưu bài học theo chủ đề, đồ dùng học tập của cá nhân trẻ đều ghi tên kí hiệu riêng từng cháu.
– Giữ sạch sẽ nhà vệ sinh của trẻ:
Nhà vệ sinh nếu không được giữ vệ sinh sạch sẽ là nơi dễ mang mầm bệnh, vì thế nhà vệ sinh dành cho trẻ cần được chú ý giữ gìn sạch sẽ, thông thoáng không để có mùi hôi. Thường xuyên chà rửa, lau chùi nhà vệ sinh bằng dung dịch nước vệ sinh, nước lau nhà vừa vệ sinh sạch sẽ vừa giúp phòng tránh được các mầm bệnh cho trẻ, giúp trẻ thoải mái khi sử dụng nhà vệ sinh.
Ngoài ra, còn dán các hình ảnh thực hiện các thao tác và hành động thực hiện
vệ sinh dán trên vách lớp, trong nhà vệ sinh ngay chỗ đặt bồn rửa tay của trẻ hoặc
nơi trẻ tiểu tiện với mục đích thường xuyên nhắc nhở trẻ có thói quen vệ sinh đồng
thời thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và các hành vi văn minh.
Tham mưu cùng nhà trường trang bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh cho trẻ:
khăn lau tay, lau mặt, bàn chải đánh răng, ca múc nước, xà phòng… chú ý sắp xếp
ngăn nắp, vừa tầm tay trẻ giúp trẻ dễ lấy sử dụng.
Ví dụ: Xà phòng để trong rổ nhỏ hoặc túi lưới treo cạnh bồn rửa tay; các loại
khăn treo trên giá thấp ngang tầm với trẻ và thường xuyên giặt sạch, phơi khô dưới
ánh nắng mặt trời; bàn chải đánh răng rửa sạch phơi nắng và cắm vào trong một giá
để bàn chải…
b. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày
* Giờ đón trẻ: tôi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cô, tôi hướng dẫn trẻ xếp mũ nón bảo hiểm, cặp vào kệ, giúp trẻ chải lại đầu tóc, hướng dẫn trẻ xếp dép đúng chân ngay ngắn lên kệ dép.
* Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay, lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay.Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội.
Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung.
* Khi trẻ uống nước: dạy và nhắc trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, không làm rơi cốc, không rót nước quá đầy, không thò tay vào thùng chứa nước thừa, không uống nước sống…
* Hoạt động vệ sinh: rửa tay – rửa mặt:
Rửa tay – rửa mặt: đúng cách, đúng kỹ năng vệ sinh tay – mặt cô hướng dẫn.
* Dạy trẻ biết tự mặc quần áo: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ – không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo,thường xuyên tắm rửa thay quần áo.
Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi học, khi đi đến những nơi công cộng hoặc dự lễ hội.
* Giờ đón và trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô giáo dục các cháu kỹ năng tự phục vụ của trẻ.
Ví dụ: Trao đổi với phụ huynh các thao tác rửa tay hoặc giờ giấc hoạt động của trẻ trong một ngày.
Nhắc nhở phụ huynh cho con tự cất đồ dùng cá nhân của mình.
* Giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm giúp cô những việc vừa sức của mình và rèn cho trẻ có các thói quen tốt. Đó là cho trẻ xếp hàng đi lấy gối, xếp gối và cất gối đúng nơi quy định sau khi ngủ dậy.
Để hình thành thói quen và nền nếp thực hiện các kỹ năng cho trẻ, tôi luôn thực hiện đúng theo lịch hoạt động vệ sinh ở trường.
Thực hiện chế độ sinh hoạt vệ sinh đều đặn, hợp lý: luôn luôn tổ chức cho trẻ thực hiện các thao tác vệ sinh đúng giờ, chú ý quan sát, theo dõi khi trẻ để kịp thời nhắc nhở trẻ làm theo quy định.Nhắc nhở trẻ, động viên trẻ kịp thời để trẻ tiếp thu và thực hiện tốt nhất.
Ví dụ như: Khi dậy trẻ vào các hoạt động cần dùng đến ghế để ngồi tôi sẽ rèn
trẻ cách be ghê đúng cách, bê bằng hai tay, lấy lần lượt từ trên xuống, không chen
lấn nhau khi lấy.
1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến8:
Sáng kiến này tôi đã áp dụng tại trường Mầm Non Đại Hiệp mà không cần phải tốn bất kỳ chi phí nào và có thể áp dụng rộng rãi cho các đơn vị hoặc các bậc học khác.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để áp dụng tốt sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân”, chuẩn bị tài liệu về hướng dẫn thực hiện chươg trình GDMN, tài liệu hướng dẫn công tác vệ sinh và chăm sóc sức khỏe trẻ mầm non; sưu tầm video và hình ảnh từ nguồn internet, các phương tiện quay video như: điện thoại, máy vi tính, cài đặt các phần mềm ứng dụng cắt, chỉnh sửa ảnh và video
a. Điều kiện về con người:
Nắm được mục đích, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ
Nắm vững phương pháp dạy kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động cho trẻ.
Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ .
Mạnh dạn, tự tin điều khiển các cuộc họp phụ huynh học sinh, biết tự chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
b. Điều kiện về cơ sở vật chất:
Phòng học rộng rãi, thoáng mát, sạch sẽ
Địa điểm tổ chức phải đảm bảo phù hợp, sạch sẽ và an toàn cho trẻ
Các điềukiện cơ sở vật chất trang thiết bị và đồ dùng
1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại9:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên trẻ đã đạt được kết quả tại lớp Bé 1 như sau:
*Đối với trẻ:
100% trẻ thích đến trường
100% trẻ đều được cha mẹ tạo điều kiện và khuyến khích khơi dậy tính tò mò,phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ bản thân, được rèn luyện kỹ năng
tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hằng ngày trong cuộc sống của trẻ.
100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
*Đối với giáo viên:
Nắm được mục đích, hiểu rõ sự cần thiết phải dạy kỹ năng tự phục vụ
Nắm vững phương pháp dạy kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ qua hoạt động cho trẻ.
Có nhiều hình thức phong phú dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ .
2. Những thông tin cần được bảo mật – nếu có:
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu:
1 Lê Thị Lệ Thủy Tại lớp Bé 2 trường MN Đại Hiệp.
2.Nguyễn Thị Tú Trinh lớp Bé 3 Trường Mầm Non Đại Hiệp.
4. Hồ sơ kèm theo (Bản mô tả nội dung sáng kiến có thể minh họa bằng các bản vẽ, thiết kế, sơ đồ, ảnh chụp mẫu sản phẩm…)
Xác nhận và đề nghị của
cơ quan, đơn vị tác giả công tác
Đại Hiệp, ngày 10 tháng 11 năm 2023 Người nộp đơn
Phạm Thị Tố Trinh