Website Trường Mầm Non Đại Hiệp – Đại Lộc – Quảng Nam

SKKN: Một vài biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt môn làm quen với toán- Giáo Viên: Lê Thị Lệ Thuỷ

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến1: “Vài biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt môn làm quen với toán”
2.Mô tả bản chất của sáng kiến7:
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo- Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền” câu hát ví von trên thường ngân vang trên môi trẻ thơ, làm tôi khẳng định được thiên chức làm người mẹ thứ hai của trẻ, là người đầu tiên vẽ nên bức tranh về sự phát triển toàn diện của trẻ.
Thực tế trong tất cả các lĩnh vực mà trẻ mầm non tiếp nhận thì lĩnh vực phát triển nhận thức (LQVT) là một hoạt động khô khan cứng nhắc, đòi hỏi trẻ phải có tư duy có tri thức đúng đắn thì mới lĩnh hội được lĩnh vực này và đây cũng chính là hoạt động góp phần xây dựng nền móng cho bậc tiểu học của trẻ nên tôi càng quan tâm.
Đối với trẻ mầm non LQVT là hoạt động rất quan trọng và cần thiết với trẻ và cũng là vốn kiến thức ban đầu để trẻ bước vào ngưỡng cữa mới của cuộc sống sau này của trẻ. Hoạt động LQVT đã mang lại cho trẻ sự phát triển tư duy, đồng thời thông qua hoạt động LQVT trẻ có thể tìm hiểu khám phá thêm về thế giới xung quanh trẻ. Đến với hoạt động LQVT trẻ trở nên tích cực nhanh nhẹn hơn, trẻ biết đếm, phân biệt nhiều hơn ít hơn, trẻ biết được mối quan hệ, phân chia tách gộp trong phạm vi trẻ đang học. Ngoài ra trẻ có thể xác định được các hình – khối. Như vậy trẻ đã dần hình thành những nét sơ đẳng biểu tượng ban đầu về toán học. Như chúng ta đã biết đặc trưng của môn toán là chính xác và khoa học. Mỗi hoạt động cung cấp cho trẻ kiến thức khác nhau đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, gợi mở tổ chức cho trẻ thực hành trên đồ dùng học tập nhằm hình thành và phát triển các thao tác của tư duy như: so sánh phân tích tổng hợp góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Bên cạnh giáo viên cần thực hiện nguyên tắc dạy học theo phương pháp đổi mới lồng ghép, tích hợp các nội dung hình thức một cách phù hợp để đạt kết quả cao nhất trong học tập.
Muốn trẻ học tập đạt kết quả cao thì vấn đề đồ dùng đồ chơi trong quá trình hoạt động LQVT phải được coi trọng vì đặc điểm tư duy của trẻ mầm non mang tính trực quan hành động, hay nói cách khác muốn trẻ tiếp thu kiến thức thì trẻ phải được thực hành với các đồ vật, đồ chơi, nhằm giúp trẻ khắc sâu kiến thức ban đầu ở bậc học mầm non.
Đối với trẻ mẫu giáo trong hoạt động LQVT thì tính sáng tạo có thể được coi là sự thông minh, nhanh nhẹn trong phán đoán, ước lượng, giải quyết vấn đề đặc biệt là tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau cho cùng sự việc hay yêu cầu được đặt ra.
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
*Thuận lợi:
Được sự quan tâm của nhà trường và phòng giáo dục đã thường xuyên mở các chuyên đề đã bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
Trẻ đúng độ tuổi và có sự quan tâm hổ trợ kịp thời của phụ huynh nên trẻ có nề nếp thói quen học tập tốt.
Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi thao giảng cho giáo viên học hỏi và trao đổi chuiyeen môn, khuyến khích kịp thời mỗi khi giáo viên có những sáng tạo trong các hoạt động.
Trao đổi rút kinh nghiệm trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, chị em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Từ đó chúng tôi đã nâng cao chất lượng dạy và học.
*Khó khăn:
Năm học này tôi được phân công dạy lớp bé đa số trẻ chưa qua bé, nhà trẻ nên việc tiếp thu kiến thức không đồng đều, cái gì cũng bỡ ngỡ mới lạ, đặc biệt đối với hoạt động LQVT lại càng xa lạ, do đó phải có thời gian nhất định để đưa trẻ vào nề nếp ổn định học tập. Đây là bước khó khăn ,làm thế nào để trẻ tiếp thu kiến thức hoạt động LQVT một cách hứng thú và tích cực cho trẻ tham gia học tập môn toán. Từ đó tôi đã mạnh dạn đăng ký đề tài “ Vài biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt môn làm quen với toán”, tôi tiến hành các biện pháp sau:
2.1. Các bước và cách thức thực hiện giải pháp:
Giải pháp 1: Kích thích trẻ sáng tạo trong hoạt động LQVT
Kích thích tính sáng tạo là một trong những mục tiêu của đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ.
Chúng ta cần lắng nghe và trả lời câu hỏi của trẻ một cách cởi mở, đừng bao giờ trả lời cho qua với trẻ.
Cho trẻ chơi các trò chơi tìm kiếm, phán đoán.
Ví dụ: Tôi tận dụng vỏ hộp đựng bánh, cho vào đó một hay vài vật rồi dán kín, sau đó tôi lắc hộp cho trẻ nghe và đố trẻ trong hộp có gì, có nhiều vật hay một vật.
Hay tôi có thể dùng chiếc lạt tre yêu cầu tạo ra các hình tròn, vuông từ chiếc lạt với những câu hỏi.
Con hãy làm thành 1 hình vuông từ chiếc lạt này.
Con làm được những hình gì với chiếc lạt này.
Con có thể dùng chiếc lạt này vào việc gì ?
Tôi thường sử dụng một số câu hỏi để kích thích sự tò mò và sáng tạo của trẻ.
Ví dụ: Tại sao con biết 2 nhóm này có số lượng không bằng nhau.
Tại sao khối vuông không lăn được.
Làm thế nào để 2 nhóm này bằng nhau.
Điều gì xảy ra khi ta chồng khối vuông lên khối cầu.
Tôi luôn khuyến khích trẻ đặt câu hỏi những thắc mắc, diễn tả và chia sẻ ý tưởng của mình với cô giáo và bạn bè.
Thông thường giáo viên chúng ta hay đặt câu hỏi trẻ trả lời, ít chú ý đến việc trẻ đặt các câu hỏi điều này đã làm hạn chế ngôn ngữ và sự suy nghĩ của trẻ. Vì vậy tôi cần động viên trẻ đặt câu hỏi do trẻ nghĩ ra.
Ví dụ: Tôi cho trẻ xem một khối vuông. Sau đó tôi đề nghị trẻ nghĩ và đặt câu hỏi về khối vuông này. Hay tôi đưa ra 2 số (4 & 3) đố trẻ 2 số này nếu gộp lại sẽ bằng bao nhiêu.
Tôi luôn đưa ra câu hỏi như con có hỏi thêm điều gì không? Sau mỗi lần trẻ nêu câu hỏi hoặc trả lời đúng chúng ta thường khen ngợi trẻ như: “Câu hỏi của con rất hay”, “ Một câu trả lời rất thông minh”.
Tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi đòi hỏi sự thông minh, nhanh trí, như thi đua xem ai có phán đoán chính xác, ai nghĩ ra nhiều cách làm hơn, ai có cách làm nhanh hơn. Cho trẻ chơi các loại đồ chơi đồ dùng có thể sử dụng theo nhiều cách khác nhau tạo cho trẻ có nhiều lựa chọn nhiều cơ hội để khám phá, đặc biệt phải thay đổi nguyên vật liệu tạo sự bất ngờ cho trẻ.
Một ngày giáo viên có tính sáng tạo thì mới có thể nói về sự sáng tạo vì thế tôi luôn tìm cách kích thích sự sáng tạo của mọi trẻ trong lớp để phát huy hết khả năng của trẻ đối với hoạt động LQVT.
Giải pháp 2. Liên hệ phụ huynh vào việc cho trẻ làm quen với toán.
Tôi xem trọng mối quan hệ giữa cô giáo và phụ huynh bởi đây là cầu nối vững chắc trong việc giáo dục trẻ. Ngoài thời gian ở trường trẻ về với bố mẹ là nơi thể hiện tình cảm của mình cũng như thể hiện được những gì đã lĩnh hội ở trường.
Tâm lý trẻ thích làm người lớn muốn thể hiện mình vì vậy tôi nghĩ rằng nên phối hợp phụ huynh để cùng giáo dục trẻ, những kiến thức nắm bắt ở trường tôi đều trao đổi với phụ huynh qua góc phụ huynh. Đặc biệt trực tiếp mời phụ huynh dự thao giảng chuyên đề cả ba hoạt động ( nhận biết số lượng-chữ số- tạo nhóm ; mối quan hệ hơn kém trong phạm vi đang học ; thêm bớt phân chia đối tượng đang học làm hai phần bằng nhiều cách). Để phụ huynh rõ trình tự của hoạt động LQVT một cách lôgích lúc về nhà phụ huynh sẽ trao đổi với trẻ về kiến thức đã lĩnh hội trong ngày với các bộ môn đặc biệt là môn toán để giúp trẻ củng cố và khắc sâu kiến thức đã học trong tư duy của trẻ, luôn đặt câu hỏi gợi mở cho trẻ và khuyến khích trẻ suy nghĩ, đặt câu hỏi, thắc mắc, chia sẻ ý tưởng.
Điều đáng lưu ý qua quá trình dự thao giảng chuyên đề phụ huynh sẽ thấy được vấn đề đồ dùng đóng vai trò quan trọng. Nếu không có đồ dùng kèm theo lời nói của cô trẻ không thể hiểu được, mà đồ dùng ở đây cũng không tốn kém cầu kỳ chỉ cần gần gũi và thiết thực với trẻ mà tất cả các phụ huynh đều có thể đóng góp được như :hộp sữa chua, yomost, bình sữa cô gái Hà Lan, các loại lon nước giải khát , mo cau, gỗ vụn, vỏ nghêu, các loại hột hạt, hoạ báo cũ, lịch cũ,…để làm đồ dùng phục vụ môn toán.
Giải pháp 3. Làm đồ dùng phục vụ hoạt động LQVT
a)Nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy để làm ra dồ dùng đồ chơi của cô và trẻ phù hợp đề tài
Ngoài việc đóng góp của phụ huynh tôi còn tiếp tục tìm tòi tận dụng phế liệu để làm đồ dùng đồ chơi vì đồ dùng đồ chơi có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động LQVT, mỗi tiết học cung cấp cho trẻ một kiến thức khác nhau và đòi hỏi phải có đồ dùng đồ chơi khác nhau phù hợp với nội dung và hình thức tổ chức tiết dạy xoay quanh chủ đề đang thực hiện.
Ví dụ: Trong bài dạy các khối vuông – khối chữ nhật – khối cầu – khối trụ tôi đã đưa ra trò chơi “Tìm nhà” ở phần luyện tập .Để đáp ứng nội dung trò chơi này ,trước đó tôi phải sưu tầm một số nguyên vật liệu có dạng khối cần dạy như vỏ hộp, thùng bia, bóng nhựa,…rồi làm những ngôi nhà có khối để trẻ chạy về nhà, trẻ chơi rất hứng thú.
Khi làm đồ dùng đồ chơi phục vụ hoạt động LQVT tôi luôn suy nghĩ tìm tòi làm ra các loại đồ dùng đồ chơi, có mối liên hệ lôgích phù hợp chủ đề.
Ví dụ:Với số 8 tiết một trong chủ đề phương tiện giao thông đường bộ tôi chọn cặp đối tượng tài xế và xe buýt (tài xế và xe buýt có mối quan hệ lôgích với nhau)
Tận dụng những quả bóng nhựa, bình sữa nhựa cô gái Hà Lan, xốp màu làm những con thỏ- gấu- gà- vịt –rùa ngộ nghĩnh đáng yêu.
Làm khuôn cho trẻ in để học toán về số lượng bằng gỗ vụn, xốp vụn, hình các con vật hoa quả, các loại hình tàu thuyền để trẻ đếm số lượng
Vỏ nghêu hột hạt lá cây cho trẻ hoạt động góc ở giờ học.
Hạt khô sơn thành nhiều màu, đục lá cho trẻ xâu hạt và làm bảng tính cho trẻ chơi.
b)Khuyến khích trẻ làm một số đồ dùng học tập cùng cô
Theo tôi công việc tuy đơn giản nhưng có giá trị rất lớn
– Khắc sâu kiến thức toán học mà trẻ đã học trên tiết
– Củng cố kỹ năng tạo hình của trẻ
– Tạo hứng thú cho trẻ khi được sử dụng những đồ dùng do mình làm ra trong tiết học, càng hứng thú hơn khi đồ dùng của cô và trẻ được đưa lên màn hình (máy chiếu)
– Giáo dục trẻ ý thức biết trân trọng và giữ gìn sản phẩm do chính mình làm ra
– Cung cấp thêm đồ dùng cho lớp
Ví dụ: Để phục vụ cho các tiết học về số lượng, tôi tổ chức cho trẻ vẽ các đồ vật, con vật đối tượng theo chủ đề. Sau đó tôi sẽ lưu lại một số tranh đẹp, cắt dán các chi tiết cần thiết rồi bôi lên bìa cứng để trẻ sử dụng trong tiết học
– Để trẻ dễ liên hệ giữa số lượng và các khối đã học tôi tận dụng các ngày sinh nhật của trẻ cho trẻ gói quà tặng nhau bằng các khối do tôi và trẻ làm từ bìa (nhiều mảnh giấy catton ghép lại thành khối) để trẻ quan sát và nhận xét (số lượng khối bằng năm sinh của trẻ)
– Trong bài tập đo độ dài bằng các đồ dùng khác nhau tôi và trẻ làm một số đồ dùng để đo như: vẽ tô màu và cắt theo hình bông hoa , bàn tay, bàn chân rồi dùng các đồ dùng này làm thước đo chiều dài các đối tượng
– Khi làm đồ dùng cần nghiên cứu sao cho một đồ dùng học tập có hiệu quả sử dụng nhiều hoạt động. không chỉ là đồ dùng môn học toán mà có thể sử dụng cho nhiều môn học và các hoạt động khác . Việc khai thác tối đa tính năng của các đồ dùng học tập sẽ tiết kiệm được thời gian và chi phí đồ dùng đồ chơi học tập cho lớp
– Trẻ mầm non thích khám phá vì thế các đồ dùng đồ chơi làm ra đảm bảo màu sắc hài hoà, đẹp mắt thì trẻ sẽ rất hứng thú với tiết học
– Dùng lịch treo tường cũ có hình hoa quả đẹp cô và trẻ cùng cắt rời cho vào rổ để trẻ phân nhóm về số lượng rất sinh động
– Dạy trẻ biết số tự nhiên thông qua làm quen với lịch
– Sử dụng lịch lốc và cho trẻ biết mỗi ngày tượng trưng một tờ lịch, trò chuyện về các ngày trong tuần. Sau đó cho trẻ xé vào cuối ngày đặt vào bao, tiếp tục cho đến ngày chủ nhật. Sau một tuần tôi đàm thoại với trẻ trên giờ học toán về số ngày trong tuần, tên gọi từng ngày , thứ tự các ngày trong tuần và những ngày đầu tiên của tháng tiếp theo cho trẻ gom lịch trong tháng trước và đàm thoại về số ngày trong tuần, số tuần trong tháng và nhận biết các ngày có liên quan đến các ngày lễ trong tháng.
Giải pháp 4. Sáng tạo ra một số trò chơi phục vụ môn toán
*Trò chơi 1: Thời trang của 6 gia đình
– Chuẩn bị:Trang phục của bố, mẹ, con bằng cam lê, áo dài, váy,…số báo danh từ 6-10 tuỳ theo mỗi gia đình có số thành viên là bao nhiêu
– Luật chơi:Từng thành viên trong 6 gia đình sẽ đi biểu diễn thời trang so sánh sự cao thấp của các thành viên trong gia đình
– Cách chơi:Cô giáo là người dẫn chương trình giới thiệu: Hôm nay ở xã Đại Hiệp có tổ chức hội thi “Gia đình văn hoá” lớp chúng mình có 6 gia đình dự thi và đạt giải cao. Vậy lớp chúng ta chào mừng 6 gia đình ấy về thăm lớp với những trang phục đẹp mắt
Chúng ta chào đón 6 người bố của 6 gia đình trong cam lê rất chửng chạc
sau khi cô dẫn lời nói thì 6 người bố biểu diễn thời trang đứng gần nhau cho trẻ so sánh chiều cao của 6 người bố , tiếp tục 6 người mẹ, 6 người con
*Trò chơi 2: Mua quà thăm bà
– Chuẩn bị: các lon nước giải khát, hộp sữa, hộp thuốc tây, các quả bóng cũ cô bọc giấy màu đẹp, cô ghi vào các hộp trên các chữ số 6-10
– Luật chơi:Đi trên ghế băng mua quà bỏ giỏ theo yêu cầu của cô
– Cách chơi: Cô nói : Mua quà có chữ số 6- hai đội thi đua tìm món quà có chữ số theo yêu cầu của cô (số 6). Sau đó cô cho cả lớp kiểm tra món quà hai đội có chữ số 6 trong các món quà và món quà đó có dạng khối gì ?
*Trò chơi 3: Xếp các hình học .
– Chuẩn bị : Các chấm tròn bằng sáp màu hoặc nắp chai.
– Luật chơi : Xếp chấm tròn ra thành nhiều dạng hình học, nhóm nào xếp nhiều hơn sẽ thắng .
– Cách chơi : Xếp cho cô hình vuông, hình chữ nhât, hay hình tam giác
tương tự cô cho trẻ xếp hình to hơn để nâng cao về kỹ năng đếm số lượng trẻ xếp xong cô cho trẻ đếm lại số cạnh, số góc vào mỗi cạnh đó bao nhiêu chấm tròn .
*Trò chơi 4: Gắn cánh hoa vào nhị hoa
– Chuẩn bị:Các nhị hoa cô và trẻ cùng cắt bằng lịch cứng như màu vàng, đỏ, tím và viết chữ số vào nhị hoa.
– Luật chơi:Gắn những cánh hoa tương ứng với số ở nhị hoa
– Cách chơi: Cho hai tổ thi đua lên gắn cánh hoa vào nhị hoa, tương ứng với số ở nhị hoa, tổ nào gắn nhanh và đúng là thắng
*Trò chơi 5: Nhặt lá, quả vào rổ .
– Chuẩn bị : Quả và lá cây được cắt bằng xốp màu .
Các bìa có chữ số từ 1-5 và vẽ hình tượng lá khác nhau
Rỗ nhỏ và trong mỗi rỗ có 1 bìa lịch trên
– Luật chơi :
Thi đua nhặt lá và quả tương ứng với chữ số trên trong rỗ .
– Cách chơi :
– Bìa chữ số 5: cháu nhặt 5 lá bỏ vào rỗ
– Bìa chữ số 3: cháu nhặt 3 quả vào rỗ
Sau đó cô và cháu kiểm tra từng nhóm
*Trò chơi 6: Những con số lăn tròn
– Chuẩn bị: Vòng tròn quay, trên vòng tròn có các ô số, các thẻ số
– Luật chơi: Chọn đúng chữ số theo yêu cầu của cô.
– Cách chơi:
+ Tìm số lượng tương ứng:
Một trẻ lên quay vòng tròn, khi dừng lại kim chỉ vào số nào trẻ có số lượng tương ứng đưa thẻ lên.
+ Tìm số liền kề:
Quay vòng tròn kim chỉ vào số nào trẻ có số liền kề ( trước – Sau) đưa lên.
VD: Kim chỉ số 5 trẻ có số lượng hoặc chữ số 4 & 6 đưa lên.
+ Gộp lại bằng số lượng đang học:
VD: Kim chỉ số 5 trẻ có số lượng 4 hoặc chữ số 4 đưa lên gộp lại để bằng 9( số đang học).
Ngoài những trò chơi trẻ thực hành với đồ vật đồ chơi tôi còn hướng dẫn trẻ khai thác các trò chơi phục vụ LQVT ở góc kidsmart, chúng ta có thể vận dụng trò chơi trong kidsmart, trong ngôi nhà toán học của Millie có các căn phòng:
-Muốn trẻ nhận biết và đọc các con số từ 0-10 ;hiểu được rằng một số sẽ chỉ ra số lượng các vật nào đó cho dù vật đó là gì; khám phá phép tính cộng, trừ cơ bản trong phạm vi 10 ta cho trẻ khám phá và thực hành trong căn phòng con số của tôi là gì ?
-Để trẻ xem các số từ 0-30 và nghe đọc các số đó; nhận biết và đọc các số; nghe đếm từ 0-30; hiểu được rằng một số biểu thị số lượng các vật mà không cần biết những vật này là gì ta cho trẻ thực hành khám phá trong căn phòng máy số
-Trong căn phòng xưởng làm bánh trẻ sẽ được nhìn nhận các số từ 0-20 và nghe đếm các vật; nhận biết cách nói , viết các số và số lượng mà các số biểu thị; làm quen với việc kết hợp các hành động đơn lẻ sẽ tạo nên nhiều kết quả khác nhau; nhìn thấy số các vật mà không cần quan tâm đến việc chúng được sắp đặt như thế nào
– Khi dạy trẻ xác định so sánh các kích thước khác nhau; phát hiện sự giống và khác nhau theo kích thước; khảo sát khái niệm kích thước; mở rộng vốn từ chỉ kích thước ta cho trẻ thực hành khám phá trong căn phòng nhỏ, vừa và lớn
– Khi dạy trẻ nhận biết các hình ta cho trẻ tự khám phá trong căn phòng ngôi nhà chuột trẻ sẽ phân biệt được kích thước của hình giống nhau; nghe và dùng tên hình; tìm ra được các hình giống nhau, không quan tâm đến vị trí của hình; sáng tạo với các hình
Từ ngôi nhà toán học của Millie không chỉ để cho trẻ khám phá về môn toán mà chúng ta có thể áp dụng cho nhiều môn học khác như:
– Khi dạy môn tạo hình những bộ mặt cười; thành phố của chúng tôi,…chúng ta có thể cho trẻ thực hành trong căn phòng ngôi nhà chuột
Giải pháp 5. Hình thức tổ chức tiết dạy:
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý trẻ “Học mà chơi- chơi mà học” hoạt động làm quen với toán được diễn ra vừa học vừa chơi luôn tạo cho trẻ sự vui tươi thoả mái, hứng thú tích cực. Với phương châm lấy trẻ làm trung tâm, để gây sự chú ý cho trẻ, hoạt động diễn ra dưới hình thức một câu chuyện, một sự kiện để khơi gợi sự chú ý của trẻ vào hoạt động, những con số đến với trẻ mới dễ thành con số dễ thương thay vì những con số đáng phải nhớ
Tổ chức các hội thi đố vui, bé thông minh nhanh trí , vườn hoa bé ngoan, vườn cổ tích, vườn bách thú, hội chợ xuân .Tất cả những hội thi này giúp trẻ khẳng định mình với tinh thần hăng hái thi đua trong quá trình học tập. Trong các hội thi tôi chia trẻ thành nhiều đội với tên dễ thương như: vàng anh –vành khuyên – hoạ mi hay thỏ trắng – thỏ nâu – thỏ xám.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) :
Qua quá trình thực hiện tôi thấy sử dụng học liệu đồ dùng đồ chơi cho trẻ LQVT đặc biệt đồ dùng do cô và trẻ cùng làm bằng nguyên vật liệu ở địa phương. Việc thay đổi các học liệu cho LQVT theo chủ đề sẽ gây hứng thú và tích cực trong học tập, trẻ được hình thành kỹ năng về toán một cách dễ dàng và khắc sâu những biểu tượng qua các bài thơ bài hát trong các hình thức giảng dạy.
Sở dĩ có được kết quả như vậy là có sự kết hợp của ban giám hiệu trường và các chị em đồng nghiệp. Qua khảo sát phát triến trẻ theo năm lĩnh vực phát triển nhận thức (LQVT) đạt 95%, có được con số này không phải là việc dễ dàng mà tôi phải cố gắng phấn đấu hết mình dạy bảo các cháu, tạo mọi điều kiện để cô và trẻ cùng làm đồ dùng dạy học. Việc làm quen với một số thuật ngữ toán học, các con số, các phép tính đơn giản đối với trẻ bây giờ không còn là điều khó khăn. Cháu đã có vốn kiến thức vững vàng, nắm bắt chắc chắn về môn toán chuẩn bị tâm thế bước vào lớp một.
2.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ với những thuận lợi và khó khăn đã nêu, nhằm khắc phục những khó khăn và phát huy những thuận lợi đã có bản thân đã thực hiện một số nội dung cải tiến sau:
Giáo viên phải thật sự yêu nghề mến trẻ, năng nổ nhiệt tình. Chịu khó trong việc sáng tạo, tìm kiếm, và làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ .
Nắm rõ đặc điểm tình hình lớp mình để có biện pháp thích hợp.
Thường xuyên thay đổi hình thức giảng dạy để tránh khô khan nhàm chán đối với hoạt động LQVT.
Phối kết hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng về toán học cho trẻ.
Thường xuyên ôn luyện kiến thức trẻ ở mọi nơi mọi lúc để giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh hơn .
Hiểu rõ về tâm lí của trẻ mà sưu tầm, sáng tác ra những bài hát, bài thơ, trò chơi phù hợp với lứa tuổi, lồng ghép vào nội dung giờ học giúp trẻ hứng thú nhớ lâu hơn.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ phải phù hợp với chủ đề . Qua gần một năm với sự nhiệt tình năng nổ của bản thân, miệt mài với những biện pháp tôi đã đề ra từ tình hình thực tế của lớp, qua 5 biện pháp đã áp dụng tại lớp đạt kết quả tốt, trẻ có kỷ năng học toán tốt thêm bớt tạo nhóm phạm vi 10 một cách thành thạo, ngoài ra hình thành cho trẻ một số tác phong nhanh nhẹn hoạt bát tích cực với khí thế thi đua trong các trò chơi, luyện tập
Đối với giải pháp 1: Qua quan sát những đồ chơi xung quanh lớp và được xem hình ảnh trên màn hình trẻ đã sáng tạo và làm hoàn thành bài tập đạt kết quả cao. Cho trẻ đi thăm quan cửa hàng trưng bày đồ chơi tại lớp, trẻ quan sát, nhận xét so sánh sự giống nhau và khác nhau, sự đa dạng phong phú của gian hàng qua đó trẻ sẽ tư duy và tạo ra nhiều sản phẩm. Ngoài tích hợp đưa các hoạt động khác vào trong hoạt động tạo hình tôi còn cho trẻ học mọi lúc mọi nơi như. Khi đi dạo chơi trẻ được ngắm nhìn vật thật, được sờ nắn.
Đối với giải pháp 2: Ngoài việc cho trẻ tham gia các hoạt động do cô hướng dẫn thì việc cho trẻ tự do khám phá các trò chơi, các hoạt động dưới sự quan sát của cô với đồ dùng đồ chơi sẵn có trong sân trường là việc hết sức cần thiết. Giúp trẻ phát triển một cách toàn diện về thể chất và tinh thần. Các trò chơi vận động luôn mang lại cho trẻ niềm đam mê và sự thích thú.
Đối với giải pháp 3: Trong một số hoạt động học tại lớp vào hoạt động mở đầu có thể cho trẻ chơi trải nghiệm với đồ dùng theo ý thích sau đó cho trẻ thảo luận với nhau và cô hỏi trẻ sau khi chơi trải nghiệm. Hoặc vào hoạt động trọng tâm giáo viên tổ chức cung cấp kiến thức cho trẻ dưới hình thức tổ chức hội thi nhằm gây sự chú ý, kích thích tính thi đua, tích cực tham gia vào hoạt động.Cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho cô và trẻ khi tổ chức các hoạt động, đồ dùng đẹp, màu sắc hài hòa, phong phú nhằm kích thích lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động.
Đối với giải pháp 4: Ngay từ đầu năm học khi mới đón trẻ vào lớp chúng tôi luôn tiếp xúc phụ huynh với một thái độ tích cực thân thiện và chia sẻ, trao đổi cụ thể với phụ huynh về chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường, nắm bắt kịp thời những thông tin về đặc điểm tâm lý tính cách của cá nhân trẻ, mời phụ huynh vào lớp làm quen với một số sinh hoạt của các con.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng liên lạc thường xuyên với gia đình trẻ (qua trao đổi trực tiếp, bảng thông báo, điện thoại) để tìm hiểu sinh hoạt của trẻ ở gia đình, thông tin cho cha mẹ biết tình hình của trẻ ở lớp, những thay đổi của trẻ để kịp thời có biện pháp giáo dục phù hợp.
2.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến8:
Các giải pháp mà tôi đã thực hiện trong năm học 2023 – 2024 nội dung gần gũi, phù hợp với việc đổi mới hiện nay, nội dung dễ áp dụng, nên có thể áp dụng trong các trường mầm non trên địa bàn huyện. Trẻ được phát huy hết khả năng, tự tin tham gia các hoạt động, được phát huy tính tích cực trong các hoạt động. Chất lượng giáo dục trẻ được nâng lên.
2.5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)
2.5.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

Sau khi áp dụng các biện pháp trên trẻ đã đạt được kết quả tại lớp Bé 2 như sau:
TSTT Những biểu hiện về tính tích cực chủ động sáng tạo.
Đầu năm
Hiện nay

1 Trẻ hứng thú tích cực khi tham gia vào các hoạt động. 40% 70%

2 Trẻ chủ động sáng tạo trong các hoạt động ở lớp. 35% 70%

3 Trẻ hiểu lời nói và biết đặt câu hỏi phù hợp. 45% 65%

4 Trẻ nhanh nhẹn thông minh, ham hiểu biết 30% 70%

5 Trẻ chủ động giao lưu cùng cô và bạn. 30%
80%
*Đối với trẻ:
– Trẻ đã biết tự lựa chọn hoạt động trải nghiệm, tiến hành hoạt động thì tích cực, sử dụng đúng chức năng của đồ dùng, đồ chơi trong trải nghiệm.
– Trẻ tích cực tương tác với các bạn trong lớp, trong trường giúp trẻ thêm gắn bó với nhau, nâng cao tinh thần đoàn kết và ý thức tập thể, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
– Hoạt động trải nghiệm còn giúp trẻ năng động, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể, hồn nhiên trong giao tiếp với mọi người xung quanh.
– Áp dụng các hoạt động trải nghiệm, các cháu có hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động vui chơi, học tập, hoạt động khác trong ngày khả năng chú ý nâng lên rõ rệt.
– Vốn từ của trẻ ngày thêm phong phú và trẻ có thể tự giải quyết một số tình huống đơn giản, phát huy óc sáng tạo tưởng tượng của trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Biểu hiện của phụ huynh rất hài lòng về kết quả học tập của con mình.
*Đối với giáo viên:
Giáo viên phải thật sự yêu nghề mến trẻ, năng nổ nhiệt tình. Chịu khó trong việc sáng tạo, tìm kiếm, và làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ .
Nắm rõ đặc điểm tình hình lớp mình để có biện pháp thích hợp.
Thường xuyên thay đổi hình thức giảng dạy để tránh khô khan nhàm chán đối với hoạt động LQVT.
Phối kết hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng về toán học cho trẻ.
Thường xuyên ôn luyện kiến thức trẻ ở mọi nơi mọi lúc để giúp trẻ khắc sâu kiến thức nhanh hơn .
Hiểu rõ về tâm lí của trẻ mà sưu tầm, sáng tác ra những bài hát, bài thơ, trò chơi phù hợp với lứa tuổi, lồng ghép vào nội dung giờ học giúp trẻ hứng thú nhớ lâu hơn.
Tổ chức các hoạt động cho trẻ phải phù hợp với chủ đề . Qua gần một năm với sự nhiệt tình năng nổ của bản thân, miệt mài với những biện pháp tôi đã đề ra từ tình hình thực tế của lớp, qua 5 biện pháp đã áp dụng tại lớp đạt kết quả tốt, trẻ có kỷ năng học toán tốt thêm bớt tạo nhóm phạm vi 10 một cách thành thạo, ngoài ra hình thành cho trẻ một số tác phong nhanh nhẹn hoạt bát tích cực với khí thế thi đua trong các trò chơi, luyện tập, và qua quá trình thực hiện sáng kiến đã lưu lại một số đồ dùng, làm hành trang cho những năm sau.
2.5.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có):
3. Những thông tin cần được bảo mật – nếu có:
4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để sáng kiến áp dụng có hiệu quả cần phải đảm bảo các điều kiện sau:
a. Điều kiện về con người
– Cần có sự thống nhất về kế hoạch, nội dung, hình thức tổ chức thực hiện của tập thể cán bộ, giáo viên trong nhà trường.
– Giáo viên thường xuyên học hỏi, thay đổi hình thức về phương pháp tổ chức hoạt động ngoài trời “Lấy trẻ làm trung tâm” để tạo hứng thú, tích cực cho trẻ hoạt động.
– Phát huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ.
– Tuyên truyền và vận động phụ huynh ủng hộ nguyên vật liệu làm đồ dùng đò chơi và tích cực trò chuyện với trẻ.
b. Điều kiện về cơ sở vật chất
– Cần phải lập được kế hoạch, xây dựng bài giảng theo chủ đề một cách cụ thể, chi tiết, sáng tạo .
– Cần phải có sự ủng hộ kinh phí từ phụ huynh học sinh, của nhà trường.
– Địa điểm tổ chức phải đảm bảo phù hợp, sạch sẽ và an toàn cho trẻ.
– Đồ dùng đồ chơi cho trẻ phải đẹp mắt, phù hợp, an toàn cho trẻ.
5. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
TT Họ và tên Ngày tháng năm sinh Nơi công tác(hoặc nơi thường trú) Chức danh Trình độ chuyên môn Nội dung công việc hỗ trợ
1 Nguyễn Thị Tuyết Anh 1989 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN này tại lớp Lớn 2

2 Đặng Thị Hiền 1990 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN này tại lớp Nhỡ 4

3 Bùi Thị Kiều Hoa 1995 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN tại lớp Bé 2

4
Phạm Thị Tố Trinh 1996 Trường MN Đại Hiệp Giáo viên Đại học SPMN Áp dụng SKKN tại lớp Bé 1

Đại Hiệp, ngày 20 tháng 9 năm 2023 Người nộp đơn

Lê Thị Lệ Thuỷ

PHỤ LỤC
PHỤ LỤC:

* Trò chơi: Nhặt quả bỏ vào rổ tương ứng với chữ số đã có sẵn trong rổ

Bé đang chơi kidsmasd trong giờ toán.

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Vài biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt môn làm quen với toán.
Thời gian họp: …………………………………………………………………………………………
Họ và tên người nhận xét: Nguyễn Thị Thương
Học vị: ĐHSP Chuyên ngành: GDMN
Đơn vị công tác: Trường MN Đại Hiệp
Địa chỉ: …………………………………………………………………………………………………..
Số điện thoại cơ quan/di động: …………………………………………………………………..
Chức trách trong Hội đồng sáng kiến:………………………………………………………….
NỘI DUNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
TT Tiêu chí Nhận xét, đánh giá
của thành viên Hội đồng
1 Tính mới và sáng tạo của sáng kiến:
Sáng kiến phải có giải pháp cải tiến giải pháp
đã biết trước đó tại cơ sở hoặc những nội dung
đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết hoặc là các giải pháp mang tính mới hoàn toàn.
2 Tính khả thi của sáng kiến:
Sáng kiến phải có giải pháp đã được áp dụng,
kể cả áp dụng thử trong điều kiện kinh tế – kỹ
thuật tại cơ sở và mang lại lợi ích thiết thực;
ngoài ra có thể nêu rõ giải pháp còn có khả năng áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức nào.
3 Tính hiệu quả của sáng kiến:
Sáng kiến phải so sánh lợi ích kinh tế, xã hội
thu được khi áp dụng giải pháp trong đơn so với trường hợp không áp dụng giải pháp đó, hoặc so với những giải pháp tương tự đã biết ở cơ sở (cần nêu rõ giải pháp đem lại hiệu quả kinh tế,

lợi ích xã hội cao hơn như thế nào hoặc khắc
phục được đến mức độ nào những nhược điểm
của giải pháp đã biết trước đó – nếu là giải pháp
cải tiến giải pháp đã biết trước đó);
Sáng kiến nếu được số tiền làm lợi (nếu có thể
tính được) và nêu cách tính cụ thể.

Đánh giá chung (Đạt hay không đạt):

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

Cảm nhận của Phụ huynh

Chị Nguyễn Thị Hoài Thu – Phụ huynh bé: Nguyễn Huỳnh Linh Đan – Lớp lớn

Con tôi rất nhút nhát, do công việc bận rộn gia đình cũng không có thời gian để tạo điều kiện cho bé thường xuyên tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên bé ngại giao tiếp hơn. Do đó khoảng thời gian đầu cho bé đi học là quãng thời gian khó khăn cho cả bé và gia đình. Tôi đã từng khóc khi thấy bé đứng thút thít do không thuộc những động tác thể dục buổi sáng… Thời gian trôi thật mau, giờ bé đã nên người và tự tin hơn rất nhiều, bé lại có thể phát huy được năng khiếu múa hát. Tất cả là nhờ sự yêu thương, gần gũi của các cô đã làm cho bé tìm được niềm vui khi đến lớp.